Frank Dikotter nói về Trung
Hoa sau Mao đã thay đổi (và không) như thế nào
Shannon Tiezzi / The Diplomat
Trần Giao Thủy dịch thuật
Kể từ năm 1976, nền kinh tế hợp tác xã cứng nhắc đã có những thay đổi hầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải để từ bỏ nó.”
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/05/thediplomat_2022-07-18-130358.jpg
Ảnh: Depositphotos
Tập Cận Bình lên ngôi và tuyên bố
về một “kỷ nguyên mới” đã làm dấy lên mối quan tâm đã có trước đây – và sự so
sánh với – kỷ nguyên “cải cách và mở cửa” trước đó. Bắt đầu dưới thời Đặng Tiểu
Bình vào cuối những năm 1970, cải cách và mở cửa đã đánh dấu sự khởi đầu của
cái thường được gọi là “phép màu kinh tế” của Trung Hoa và sự chuyển đổi sang nền
kinh tế hiện đại. Nhưng “phép màu” không đơn giản như người ta thường nghĩ.
Trong cuốn sách mới nhất của Frank Dikotter, “Trung Hoa thời hậu Mao”, tác giả
của “Ba bi kịch của Nhân dân” hướng sự chú ý của ông đến thời kỳ hậu Mao của
Trung Hoa, đến những năm cải cách kinh tế đầy biến động bắt đầu từ cuối những
năm 1970. Tuy nhiên, như Dikotter nhấn mạnh, đổi mới chính trị chưa bao giờ nằm
trong nghị trình – bất chấp hy vọng của nhiều người trong giới phân tích và
chính khách phương Tây. “Phép màu kinh tế” trên thực tế là một con đường quanh
co, đánh dấu bằng những hậu quả không lường trước được, sự đổi chiều đột ngột
và những tranh cãi nội bộ – tất cả đều nhằm mục đích rõ ràng là duy trì sự kiểm
soát toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Hoa ở ba mặt kinh tế, chính trị và xã hội
của Trung Hoa.
Shannon Tiezzi (ST) của The Diplomat đã phỏng vấn Dikotter (FD) qua email
về “Trung Hoa thời hậu Mao” và cách mà nền kinh tế và quản trị của Trung Hoa đã
thay đổi – và, quan trọng không kém, cách chúng không thay đổi – kể từ năm
1976.
Dikotter nói với The Diplomat:
“‘Trung Hoa Đỏ’ không bao giờ biến mất. Vấn đề là mọi người [ở nước ngoài] đã
ngủ quên.”
=========================================================
ST : Cuốn sách của ông liên tục mô tả những trường hợp giới chức chính quyền
Trung Hoa phản ứng với những sự kiện đã xẩy ra trong việc hoạch định chính sách
của họ. Hết lần này đến lần khác, những cải cách kinh tế được thực hiện không
phải do chính phủ quyết định, mà vì chúng đã diễn ra trên thực tế và không thể
dừng lại (ví dụ, kết thúc những công xã nông nghiệp, cải cách giá cả, và sự gia
tăng của thị trường địa phương). Chúng ta có nên định hình lại “phép lạ kinh tế”
của Trung Hoa như một điều gì đó đã xẩy ra không phải vì, mà bất chấp chính phủ
Trung Hoa?
Hình : https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/05/111111_frank_dikotter_maos_great_famine.jpg
MAO’S GREAT
FAMINE
FD: Tôi nghĩ điều đó sẽ chính xác ở vùng nông thôn cho đến năm 1982, khi
các Công xã Nhân dân sụp đổ, bị dân làng khoét rỗng. Người dân ở nông thôn tự
vươn lên thoát nghèo, phớt lờ những chiến dịch lặp đi lặp lại cấm mọi gia đình
nông dân tự ý canh tác trên đất của mình. Nhưng không phải như vậy sau đó.
Trên thực tế, từ khóa là “hậu quả ngoài ý muốn”.
Ban lãnh đạo đảng CSTH đã rất ngạc nhiên trước sự tăng trưởng kinh tế đến từ
nông thôn và vào năm 1984, quyết định áp dụng cách giải quyết tương tự với những
doanh nghiệp nhà nước ở thành phố: Với hệ thống hợp đồng, những doanh nghiệp
này có thể giữ lại bất kỳ sản phẩm thặng dư nào đã sản xuất vượt quá hạn ngạch
của nhà nước. Nhưng nó đã gây ra sự tranh giành nguyên liệu, dẫn đến việc chính
quyền địa phương lần lượt dựng lên rào chắn và trạm kiểm soát để ngăn người
ngoài ăn trộm (và dân làng bán sản phẩm của họ ở nơi khác với giá cao hơn).
Thay vì một nền kinh tế quốc gia thống nhất, nó dẫn đến sự hình thành của những
thái ấp độc lập. Nó cũng gây ra lạm phát lớn, dẫn đến tình trạng bất ổn vào mùa
xuân năm 1989.
Danh sách hệ quả bất ngờ này còn dài, đó là
chưa đề cập đến chính sách một con. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình đề nghị thu hút
thêm đầu tư nước ngoài bằng cách cho phép chính quyền địa phương cho thuê đất.
Kết quả là đất đai trở thành tài sản thế chấp, và chính quyền trung ương ngày
càng rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu cho phép lĩnh vực bất động sản
suy thoái, nó sẽ phải gánh những khoản nợ khổng lồ do chính quyền địa phương
tích lũy, chưa kể đến tất cả những khoản nợ tiềm ẩn do các phương tiện tài
chính của chính quyền địa phương gây ra.
Hình : https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/05/chinaaftermao.jpg
CHINA AFTER MAO
ST: Một chủ
đề phổ biến khác suốt cuốn sách là sự hoang tưởng của ĐCSTH về sự xâm nhập của
nước ngoài. Điều này từng được coi là “tự do hóa giai cấp tư sản”, một thuật ngữ
không còn thịnh hành ngày nay. Quan niệm của ĐCSTH về thế nào là “quá xa lạ” –
và các mục tiêu “thanh lọc” ý thức hệ của nó – đã phát triển như thế nào kể từ
những năm 1970?
FD: Rất ít đã thay đổi
về nội dung. Năm 1957, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đưa ra khái niệm “diễn
biến hòa bình”. Ông gợi ý rằng Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác nên hỗ trợ
kinh tế cho các quốc gia vệ tinh của Liên Xô với hy vọng rằng, cùng với tiến bộ
kinh tế, họ sẽ phát triển một cách hòa bình hướng tới một hệ thống dân chủ.
Đây đúng là những gì đã xẩy ra vào ngày 4
tháng 6 năm 1989, khi người dân Ba Lan bỏ phiếu truất phế Đảng Cộng sản bằng lá
phiếu. Hungary và các nước Đông Âu khác theo sau. Bắc Kinh đã sửng sốt, và vào
mùa hè năm 1989, Giang Trạch Dân đã coi “diễn biến hòa bình” là một trong những
mối đe dọa chính đối với sự cai trị của Đảng Cộng sản. Đến nay nó vẫn được coi
là một mối nguy hiểm lớn.
Mỗi khi Bill Clinton, George Bush, Kevin Rudd
hay Tony Blair nói về việc sau cải cách kinh tế, cải cách chính trị chắc chắn sẽ
đến với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như thế nào, họ đều đưa ra tất cả bằng chứng
mà giới lãnh đạo ĐCSTH cần có để khẳng định quan điểm của họ rằng những thế lực
nước ngoài đang cố gắng thâm nhập và lật đổ quyền lực (của Đảng) bằng “diễn biến
hòa bình”, mục đích của họ là lật đổ Đảng Cộng sản. Họ có thể đã mỉm cười lịch
sự, nhưng họ thậm chí còn quyết tâm hơn để ngăn chặn dòng chảy của “những thứ
xa lạ”. Tất cả, từ chuột Mickey đến những tổ chức phi chính phủ, đều được coi
là một phần của âm mưu buộc Trung Hoa “diễn biến hòa bình”. Ông đã thấy sự kiểm
soát tăng dần đối với “những thứ xa lạ” trong vài chục năm qua nói chung, kể từ
năm 2008 nói riêng.
ST: Ngay cả
khi liên tục lo sợ sự xâm nhập và cuối cùng thất bại trước sức mạnh của phương
Tây, ĐCSTH vẫn kiên định với niềm tin về phương Tây và sự suy tàn không thể
tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Luận điệu này đã thay đổi ra sao, và làm thế
nào để giới lãnh đạo đảng CSTH tiếp tục biện minh cho niềm tin này bất chấp 100
năm chờ đợi trong vô vọng chủ nghĩa tư bản tự sụp đổ?
FD: Một chuyện khôi hài
cũ của cộng sản kể rằng những người theo chủ nghĩa Mác rất giỏi trong việc dự
đoán tương lai nhưng thấy việc dự đoán quá khứ khó khăn hơn nhiều. Tất nhiên,
chủ nghĩa Mác là một triết lý đã báo trước sự sụp đổ sắp xẩy ra của chủ nghĩa
tư bản từ hơn một thế kỷ, như ông đã nêu lên. Đó là viễn tượng mà giới lãnh đạo
ở Bắc Kinh kiên quyết theo đuổi. Lý do tại sao Mao quyết định nối lại quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ vào năm 1972 là vì ông ta tin rằng Liên Xô là một mối đe
dọa lớn hơn nhiều.
Khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Đặng Tiểu Bình
giải thích đó là bằng chứng cho thấy phe đế quốc đang suy tàn. Ông cũng cố gắng
vận động sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ và Nhật Bản để chống lại kẻ thù chung của họ là
con gấu bắc cực. Chúng ta tưởng tượng rằng khi gởi những phái đoàn đi tìm hiểu
thực tế đến Hoa Kỳ vào cuối những năm 1970, cán bộ CSTH đã rất ngạc nhiên trước
sự giàu có tuyệt đối mà họ nhìn thấy. Không hẳn: Những phái đoàn này đã phúc trình
với Bắc Kinh rằng người Mỹ đang phải gánh chịu nạn lạm phát, thất nghiệp, nợ nần
và một cuộc khủng hoảng kinh tế đang rình rập. Bộ Ngoại thương CHNDTH kết luận
vào năm 1979.
“Chúng ta phải nắm nay lấy nhữn điều kiện cực kỳ thuận
lợi này.”
Họ hoàn toàn bất ngờ vì sự sụp đổ của Liên Xô
năm 1991. Chỉ sau một đêm, khẩu hiệu đã thay đổi từ “Chỉ Chủ nghĩa xã hội mới
có thể cứu được Trung Hoa” thành “Chỉ có Trung Hoa mới có thể cứu được
Chủ nghĩa xã hội”.
Họ đã mong đợi sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản từ
năm 1921, và họ vẫn đang chờ đợi. Một thời điểm quan trọng đã đến vào năm 2008:
Với cuộc khủng hoảng thế giới sau sự sụp đổ của Lehmann Brothers, giới lãnh đạo
ĐCSTH tin rằng họ đang chứng kiến sự khởi đầu của sự kết thúc. Niềm tin của họ
vào tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội dường như cuối cùng đã được đền đáp. Một
kết quả là sự ngạo mạn bắt đầu xuất hiện, với giọng điệu gay gắt hơn về mặt đối
ngoại, kể cả cái gọi là ngoại giao chiến lang. Một cách khác là những bài giảng
bất tận lên lớp những quốc gia nền dân chủ nên điều hành công việc của họ như
thế nào. Chính Ôn Gia Bảo đã chỉ trích những người đối thoại với ông tại Davos
vào tháng 1 năm 2009 vì tin vào chủ nghĩa tư bản, cà ông xiển dương chủ nghĩa
xã hội vì coi đó là khuôn mẫu phải noi theo.
Nhưng người tin tưởng nhiệt thành nhất vào sự
sụp đổ cuối cùng của chủ nghĩa tư bản phải là Tập Cận Bình, sau Vương Hỗ Ninh.
ST: Đã có
lúc ông viết về những tai ương ngân hàng của Trung Hoa: “Cần phải có một người
cương quyết sẵn sàng thanh trừng, chém, đốt và trừng phạt ở mức đủ lớn để khiến
giới lãnh đạo địa phương phải phục tùng” để thúc đẩy những cải cách cần thiết.
Ông có nghĩ rằng Tập Cận Bình là một người cương quyết như vậy không – và nếu vậy,
liệu ông ấy có thực sự sẵn sàng dùng quyền lực của ông ta để thực hiện công việc
khó khăn là tái cấu trúc nền kinh tế Trung Hoa không?
FD: Trong một quốc gia
độc đảng, chính trị luôn chỉ huy. Cái khó không phải ở kinh tế, đóng vai phụ,
mà là ở chính trị, hay nói cách khác là quyền lực. Ông phải nhớ rằng tổ chức của
đảng đã bị cuộc Cách mạng Văn hóa tàn phá tơi bời, khi Chủ tịch Mao cho phép những
người bình thường, trong một thời gian ngắn, nhận nhiệm vụ của bất kỳ đảng viên
nào, dù là cán bộ địa phương hay một bộ trưởng đầy quyền lực ở thủ đô. Ông ấy gọi
đó là “Thả bom vào Tổng hành dinh”, hy vọng rằng “quần chúng” sẽ đánh bật tất cả
những kẻ thù thực sự hoặc tưởng tượng của cuộc cách mạng, kể cả những người có
thể chống lại ông ấy. Cách mạng Văn hóa khiến đảng tan nát, đặc biệt là ở vùng
nông thôn nơi nhiều cán bộ địa phương cho phép dân làng phá hoại hợp tác xã, miễn
là họ có thể phát triển kinh tế.
Sau đó, vào năm 1984, Triệu Tử Dương cho phép
những chính quyền địa phương hưởng lợi từ thặng dư do do những doanh nghiệp nhà
nước địa phương sản xuất. Trên hết, vào năm 1984, ông đã cho chi nhánh địa
phương của những ngân hàng nhà nước có nhiều quyền hơn trong việc quyết định về
những khoản cho vay ở địa phương. Nói cách khác, ông đã cho chuyển rất nhiều
quyền lực từ trung ương đến chính quyền địa phương. Đó là những gì trích
dẫn mà ông nêu trên đề cập đến. Triệu Tử Dương không có ý chí cũng như quyền lực
để kiểm soát thái ấp địa phương; ông ấy buộc phải thỏa hiệp. Nhưng trong những
năm qua, một phần lớn ảnh hưởng đã được khôi phục lại cho trung ương, và kể từ
năm 2012, Tập Cận Bình đã quyết tâm “hạ bệ mọi lãnh đạo địa phương”. Việc điều
này phải trả giá bằng sự suy giảm kinh tế, vì những chiến dịch bất tận chống
tham nhũng và phong tỏa chống COVID-19, không có gì đáng ngạc nhiên.
ST: Một số
nhân vật lãnh đạo Trung Hoa (thường là các thủ tướng, như Triệu Tử Dương, Ôn
Gia Bảo, gần đây nhất là Lý Khắc Cường) đã bị coi là “những người cải cách” và
đôi khi có cảm giác tiếc nuối rằng Trung Hoa ngày nay sẽ cởi mở hơn về chính trị
và kinh tế nếu họ có nhiều ảnh hưởng hơn. Nhưng như cuốn sách của ông đã nhiều
lần nêu lên, không ai trong số những nhân vật lãnh đạo này cuối cùng đặt câu hỏi
về quyền cai trị của ĐCSTH, họ cũng không ủng hộ dân chủ hay tam quyền phân lập.
ông có nghĩ rằng nhãn hiệu “người cải cách” hữu ích trong việc mô tả các chính
khách Trung Hoa hay không?
FD: Chúng ta có khuynh
hướng quên rằng nền kinh tế của những nước cộng sản đã thay đổi rất nhiều theo
thời gian. Ngay cả dưới thời Stalin, vào những năm 1930, doanh nhân nước ngoài
khi giao dịch ở Moscow đã cảm kích trước những khách sạn sang trọng, những nhà
hàng đẳng cấp thế giới, những tòa nhà chọc trời, chưa kể đến biểu tượng của chế
độ, một hệ thống xe điện ngầm đẹp mắt, lộng lẫy. Ở Ba Lan, ngay cả ở đỉnh cao của
chủ nghĩa cộng sản, phần lớn những cửa hàng, kể cả nhà hàng, đều là của tư
nhân. Hai phần ba diện tích đất canh tác được nông dân tư nhân canh tác vào những
năm 1980, một thực tế được coi là không thể chấp nhận được đối với Bắc Kinh
ngày nay.
Sau năm 1949, Đảng Cộng sản mất vài năm để tịch
thu tất cả phuong tiện sản xuất, nghĩa là đến năm 1956 thương mại và mậu dịch
là hoạt động thuộc nhà nước trong khi ở nông thôn, dân làng đã mất đất và không
được kiểm soát vụ mùa của họ. Không một nhann vật cải cách nào nghiêm túc cân
nhắc việc từ bỏ những gì có được nhờ quá nhiều vào bạo lực vào những năm 1950,
hoàn toàn ngược lại.
Năm 1992, khi Đặng Tiểu Bình đề nghị rằng nên
cho thuê đất để thu hút vốn nước ngoài, ông đã nói rất ngắn gọn: Công cụ nước
ngoài trong tay xã hội chủ nghĩa. Như ông ta đã đã nói, đất đai thuộc về nhà nước,
ngân hàng thuộc về nhà nước, vì vậy không có gì phải sợ đầu tư nước ngoài nhiều
hơn. Chính sựu độc quyền nắm phuong tiện sản xuất đã giúp đảng tự tin thu hút vốn
nước ngoài, chưa kể đến việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và vượt qua mọi
quốc gia thành viên, thậm chí cả Bangladesh trong sản xuất hàng may mặc.
Vấn đề là từ năm 1976, nền kinh tế tập thể hóa
cứng nhắc đã được thay đổi để xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải để từ bỏ
nó. Và tất nhiên, cũng để tạo ra của cải lớn hơn cần có để chống lại phe đế quốc,
nhất là âm mưu diễn biến hòa bình.
ST: Một số
người trong giới phân tích đã lập luận rằng Trung Hoa đã bước vào một thời kỳ mới
dưới thời Tập Cận Bình, một thời kỳ khác về phẩm chất so với thời kỳ hậu Mao. Dựa
trên phân tích của ông về “Trung Hoa sau Mao”, ông có đồng ý rằng Trung Hoa thực
sự đang ở trong một “kỷ nguyên mới” không?
FD: Không chút nào cả.
Kevin Rudd, đã không hiểu nhiều về Trung Hoa khi còn là thủ tướng Úc, bây giờ lại
muốn nói với chúng ta rằng “Trung Hoa Đỏ đã trở lại.” Nhưng “Trung Hoa đỏ” chưa
bao giờ biến đi đâu hết. Chỉ có những người như Kevin Rudd đã ngủ quên. Hoặc,
nói cách khác, họ quá bận kiếm tiền ở Trung Hoa nên không chú ý khi giới lãnh đạo
ở Bắc Kinh, năm này qua năm khác, nêu lên tầm quan trọng của Bốn Nguyên
tắc Chính yếu đã ghi trong hiến pháp năm 1982: duy trì vai trò lãnh đạo
của đảng, giữ vững đường lối xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Mao Trạch Đông, giữ vững chuyên chính vô sản.
Lần cuối cùng Bốn Nguyên tắc Chính yếu này
được Tập Cận Bình nhấn mạnh là tại Đại hội Đảng lần thứ 20 vào tháng 10 năm
2022. Về điểm này, ông ấy đi theo những người tiền nhiệm và giống như họ, ông ấy
tuân thủ hiến pháp một cách chặt chẽ . Tôi đề nghị tất cả chúng ta nên đọc nó
(Hiến pháp CNDTH), giống như chúng ta nên đọc hiến pháp của Hoa Kỳ khi giao dịch
hoặc sinh sống tại Hoa Kỳ.
Tác giả |
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/05/shannon-tiezzi-100x100.jpg
Shannon
Tiezzi là Chủ biên của tờ The Diplomat.
© 2023 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net”
Nguồn:
Frank
Dikotter on How China Changed (and Didn’t) After
Mao | Shannon
Tiezzi | The Diplomat | January 03, 2023.
No comments:
Post a Comment