Nguyễn Ngọc Hiệp
POSTED ON MAY 26, 2023
https://dcvonline.net/2023/05/26/phat-trien-ben-vung/
PTBV là một dự án cần thiết,
một dự án tốt khiến được sự ủng hộ toàn cầu. Chắc chắn nó chỉ thực hiện được
qua nhiều thế hệ. Kết quả hành động của nó cũng khó đánh giá sau một hay hai thập
niên. Cho tới bây giờ trong công cuộc thực hiện PTBV, những thử thách và khó
khăn mới xuất hiện nhiều hơn số thử thách và khó khăn đã giải quyết. Thực tế
này không đủ và không thể là lý do để bảo rằng PTBV là một dự án viển vông và
khái niệm PTBV chỉ có giá trị về mặt lý thuyết.
Hình : https://www.arenasolutions.com/wp-content/uploads/what-is-supply-sustainable-development.png
Từ khoảng hơn mười năm
nay, phát triển bền vững (PTBV) đã trở thành một khái niệm vô cùng phổ thông.
Nói tới phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát triển quốc gia hay phát
triển địa phương, phát triển toàn cầu hoặc phát triển khu vực, v.v., “phát triển”
đều được hiểu theo nghĩa “phát triển bền vững”. PTBV là hướng đi mà Tổ chức
Liên Hiệp Quốc, chính phủ các quốc gia, các đoàn thể và nghiệp đoàn, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức dân sự, v.v. đã tán đồng và ủng hộ. Những nước
giầu cũng như các quốc gia có thu nhập thấp đều chủ trương PTBV, soạn thảo các
chương trình và kế hoạch kinh tế-xã hội theo hướng và trong tinh thần của sự
PTBV. Gần đây, Ngân hàng thế giới đã chọn PTBV làm đề tài cho phúc trình thường
niên 2003 với tựa là “Phát triển bền vững trong một thế giới năng động” (Sustainable
Development in a Dynamic World, World Development Report 2003, World Bank).
Phát triển bền vững là
gì? là thế nào? Tại sao cần đi theo hướng PTBV? Đâu là các đặc
tính, nguyên tắc của sự PTBV? PTBV có những định đề nào? PTBV đòi hỏi
những điều kiện gì? Thi hành PTBV thường gặp những trở ngại khó khăn nào
và những thử thách hoặc giới hạn gì? Làm sao thực hiện PTBV trong hoàn cảnh
đói nghèo trên thế giới và với tiến trình toàn cầu hóa bất bình đẳng? Kết
quả PTBV trên thế giới ra sao và viễn tượng tương lai như thế nào?
Với chủ ý làm sáng tỏ các
vấn đề và trả lời các câu hỏi vừa nêu, bài viết dưới đây sẽ đề cập tới những tiết
mục sau đây:
·
Nguồn gốc và ý nghĩa của khái niệm PTBV
·
Luận thuyết PTBV và các nguyên tắc định hướng
·
Các định đề và điều kiện của PTBV
·
Các thử thách và giới hạn thi hành PTBV
·
PTBV và vấn đề đói nghèo và tiến trình toàn cầu hóa
·
Kết quả PTBV và viễn tượng tương lai
1. Khái niệm phát
triển bền vững: nguồn gốc và ý nghĩa
https://www.clubofrome.org/wp-content/uploads/2020/02/LtG-600x800.png
Download the book in pdf here.
Cách đây hơn một nửa thế
kỷ, khi thế giới bước ra khỏi thế chiến thứ hai, vấn đề phát triển có một nội
dung thuần túy kinh tế. Các chương trình mở mang quốc gia, các chính sách và kế
hoạch kinh tế-xã hội chỉ quan tâm tới các vấn đề đầu tư, sản xuất, công nghiệp
hóa, tự túc lương thực, hiện đại hóa nông nghiệp, sản xuất thay thế nhập khẩu,
sản xuất nhắm thị trường nước ngoài, v.v.. Lúc bấy giờ phát triển kinh tế
(développement économique) đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế (croissance
économique), không có sự phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa phẩm và lượng
trong công cuộc mở mang quốc gia. Riêng đối với các nước chậm tiến có nền kinh
tế lạc hậu thì được xem như chỉ có nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc tiến các
chương trình nhắm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế thế giới lúc bấy giờ tiến lên
trong khuôn khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận kinh tế máy móc, một
chiều, hẹp hòi và phiến diện.
Vào đầu thập niên những
năm 1970, sau một thời kỳ trong đó các nước trên thế giới thi đua công nghiệp
hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị trường, Câu lạc bộ La Mã (Club of Rome) đã phát hành và
phổ biến một tài liệu mang tựa là “Ngừng tăng trưởng” hoặc “Giới hạn của tăng
trưởng” tùy phiên dịch tựa Pháp ngữ (Halte à la croissance) hay Anh ngữ (The
Limits to Growth) của tài liệu. Tài liệu này vì đề nghị một hướng đi mới cho sự
phát triển và có những nhận thức chính đáng, những nhận định xác thực về tổ chức
kinh tế, đời sống xã hội nên đã ảnh hưởng làm thế giới cảnh tỉnh trên vấn đề
liên quan tới môi trường-môi sinh. Tài liệu viết rằng sự tăng trưởng kinh tế và
dân số quá nhanh cùng với tình trạng thi đua sản xuất không giới hạn và khai
thác vô ý thức các tài nguyên làm ô nhiễm môi trường, môi sinh và làm cạn kiệt
dự trữ tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Câu lạc bộ La Mã đề nghị chính
sách “không tăng trưởng” (croissance zéro) với lý do tăng trưởng kinh tế nghịch
với bảo vệ môi trường môi sinh.
Chủ trương “không tăng
trưởng” không thuyết phục được thế giới. Những nước nghèo và chậm tiến
cũng như các quốc gia có nền kinh tế giầu có đều chống đối quan điểm của Câu lạc
bộ La Mã, tuy với những lý do hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, đứng về phương diện
nhận thức kinh tế thì đã có những tiến bộ quan trọng mà đáng ghi nhất là sự
phân biệt giữa tăng trưởng kinh tế (croissance économique) với phát triển kinh
tế (développement économique). Tăng trưởng kinh tế là sự nhận thức một chiều và
phiến diện về hoạt động và sản xuất kinh tế. Nó chú trọng tới số lượng sản xuất,
phương diện vật chất của hoạt động kinh tế. Trái lại, phát triển kinh tế là một
khái niệm xuất hiện vào khoảng giữa thập niên những năm 1960 từ một nhận thức mở
rộng về kinh tế, không còn tính cách máy móc, eo hẹp. Theo khái niệm mới này
“thêm” không đồng nghĩa với “hơn”. Do đó tăng trưởng kinh tế, sản xuất “thêm”
không chắc chắn chỉ có lợi và thuần túy tích cực mà có thể ảnh hưởng không tốt
làm môi trường, môi sinh tiêu hao hoặc hư hại. Ngược lại, phát triển kinh tế là
một nhận thức toàn diện bao gồm các khía cạnh tinh thần và vật chất, kinh tế và
xã hội, phẩm và lượng. Phát triển kinh tế gợi ý phải có đổi thay và tiến bộ
không ngừng, về phẩm và lượng, để kinh tế-xã hội ngày một “hơn” một cách
toàn diện, cân đối, thống nhất. Như vậy nếu tăng trưởng kinh tế nghịch với yêu
cầu bảo vệ môi trường-môi sinh, thì phát triển kinh tế lại có khả năng bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, di sản sinh thái, môi trường-môi sinh. Phát triển kinh
tế giữ được vai trò phát huy quan hệ hỗ tương giữa hoạt động kinh tế-xã hội với
môi trường-môi sinh để loài người có cuộc sống thực sự tiến bộ, có an sinh và
phúc lợi, có môi trường-môi sinh không ô nhi ễm, có hệ sinh thái cân bằng xung
quanh.
Một năm sau Câu lạc bộ La
Mã công bố phúc trình “Ngừng tăng trưởng”/“Giới hạn của tăng trưởng”, tổ
chức Liên Hiệp Quốc triệu tập năm 1972 tại Stockholm Hội nghị Liên Hiệp Quốc về
Môi trường (Conférence
des Nations Unies sur l’Environnement). Hội nghị đã diễn ra trong bầu không
khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái niệm mới là “phát triển tôn
trọng môi sinh” (éco-développement) với chủ trương bảo vệ môi trường, tôn trọng
môi sinh, quản lý hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên, thực hiện công bằng và ổn định
xã hội. Khái niệm “phát triển tôn trọng môi sinh” (éco-développement) bị các nước
đã phát triển và giầu có chống đối mạnh mẽ. Cuối cùng hội nghị chỉ thảo luận vấn
đề ô nhiễm và chấm dứt với sự tán đồng quan điểm có mối liên hệ và ảnh hưởng hỗ
tương giữa nếp sống của loài người với môi trường-môi sinh, giữa phát triển
kinh tế-xã hội với bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên. Ngoài ra các nước
cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo vệ môi trường-môi sinh và thành lập
những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ môi trường-môi sinh.
Mặc dù đề nghị “phát triển
tôn trọng môi sinh” không được chấp thuận, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng
hướng tới sự khai sinh khái niệm “phát triển bền vững” (PTBV).
Vào đầu thập niên những
năm 1980, Liên hiệp Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (Union internationale pour la
Conservation de la nature-UICN) là tổ chức đã đề khởi khái niệm phát triển bền
vững (PTBV). Rồi năm 1987, khái niệm này đã được Ủy ban Thế giới về Môi trường
và Phát triển (Commission mondiale sur l’Environnement et le développement) do
bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch tiếp thu, khai triển và định nghĩa như
sau trong phúc trình mang tựa “Tương lai của chúng ta” (Notre avenir à tous/Our
Common Future):
https://journals.openedition.org/dynenviron/docannexe/image/541/img-2-small480.jpg
Gro Harlem Brundtland. Nguồn: UN Photo.
“Phát triển bền vững là sự phát
triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện tại nhưng không tổn hại cho khả năng của
các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu cầu của chính họ.”
“Le développement durable est
un développement qui répond aux besoins du présent sans compromettre la
capacité des générations futures de répondre aux leurs.”
Khái niệm PTBV như vậy có
một nội dung bao quát, không có phạm vi nhất định, không bị gò bó bởi những chuẩn
mực hoặc quy tắc đã định trước và không cũng có tính cụ thể rõ rệt. Khái niệm
có thể diễn nghĩa nhiều cách, theo nhiều hướng khác nhau. Khái niệm có thể thi
hành với những phương tiện hành động uyển chuyển. PTBV là một khái niệm co dãn,
dễ áp dụng vào điều kiện thực tế và hoàn cảnh xung quanh. Nói chung, PTBV là một
hướng đi dung hòa chủ trương “không tăng trưởng” (croissance zéro) và chính
sách “phát triển tôn trọng môi sinh” (éco-développement).
Từ lúc phúc trình
Brundtland phổ biến (1987) cho tới nay, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã triệu tập hai
hội nghị quan trọng dành cho vấn đề PTBV. Hội nghị thứ nhất diễn ra năm 1992 tại
Rio de Janeiro gọi là Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất (Sommet de la Terre/Earth
Summit) đã chính thức hóa sự đồng lòng thỏa thuận của các nước hội viên Liên Hiệp
Quốc về một chương trình nghị sự PTBV gọi là Agenda 21 (Action
Plan for Sustainable Development for the 21st Century). Rồi
mười năm sau, vào năm 2002, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị khác tại
Johannesburg với tên gọi là “Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững”(Sommet
mondial pour le développement durable/World Summit on Sustainable Development).
Hội nghị Johannesburg đã xác định phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và đã đề
ra các mục tiêu cho thiên niên kỷ 21.
.
2. Luận thuyết
phát triển bền vững và những nguyên tắc định hướng
Luận thuyết PTBV đi từ nhận
định rằng loài người không tôn trọng, không bảo toàn môi trường môi sinh. Thiên
nhiên bị hư hại, hệ sinh thái mất cân bằng, di sản môi trường-môi sinh suy
thoái khiến loài người bị đe dọa, tình trạng đói nghèo trên thế giới nghiêm trọng,
chênh lệch giầu nghèo giữa các nước gia tăng. Tài nguyên thiên nhiên sút giảm
và thiếu hụt. Vấn đề đặt ra là làm sao thỏa mãn yêu cầu căn bản của con người,
bảo đảm tương lai và an sinh cho các thế hệ về sau và đồng thời bảo toàn môi
trường-môi sinh. Phương cách giải quyết vấn đề này là “phát triển bền vững”
(PTBV), phát triển tổng hợp, toàn bộ, về tất cả các phương diện môi trường, môi
sinh, kinh tế, xã hội và chính trị bởi vì không thể có bền vững môi trường môi
sinh nếu không có bền vững chính trị để bảo vệ hệ sinh thái. Cũng không thể có
công bằng xã hội nếu không bảo đảm được sự bền vững và cân bằng sinh thái cần
thiết để bảo đảm loài người sẽ tồn tại. Và cũng không thể chăm lo tăng trưởng
kinh tế nếu sự tăng trưởng này làm hư hại môi trường-môi sinh, gây tai biến
thiên nhiên mà hậu quả là có thể đưa loài người tới thảm họa.
PTBV bác bỏ các quan niệm
thị trường tự điều hòa và quan niệm con người có nhu cầu mênh mông, không bao
giờ hết, không cần định chừng mực. PTBV chống khuynh hướng tiêu dùng không giới
hạn và chủ trương loài người phải xét lại quan niệm và các mẫu mực về an sinh,
phúc lợi và chất lựợng của cuộc sống.
PTBV cho rằng vì sự chênh
lệch giầu nghèo trên thế giới cho nên bắt buộc phải theo một hướng đi mới. Một
mặt cần phải kìm giữ sử dụng tài nguyên, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường và phá hủy
môi sinh, giảm thiểu rác thải. Mặt khác, số dân đói nghèo trên thế giới có yêu
cầu gia tăng tiêu dung và sản xuất để thỏa mãn các yêu cầu căn bản, bảo vệ và
nâng cao nhân phẩm. PTBV nhận định rằng quan hệ không cân bằng, không bình đẳng
trên thế giới và mô hình toàn cầu hóa kiểu tân tự do là một mối đe dọa cần phải
phòng chống. PTBV chỉ là thực tại nếu nó có tính cách toàn cầu. PTBV nhắm thỏa
mãn yêu cầu căn bản của con người là lương thực, nước sạch, nhà ở, sức khỏe,
giáo dục, an sinh, phúc lợi, quyền phát biểu, quyền tham gia, v.v. và nhiều yêu
cầu tinh thần và vật chất khác.
Luận thuyết PTBV thừa nhận
tăng trưởng kinh tế có tính cần thiết nhưng cũng xác định tăng trưởng chỉ là điều
kiện cần (không phải là điều kiện đủ) cho phát triển. Như vậy có nghĩa tăng trưởng
chỉ là phương tiện cho cứu cánh là PTBV.
Luận thuyết PTBV còn nói
rằng kinh tế và xã hội phải hòa hợp, bổ sung thành một thể thống nhất. Nhu cầu
của con người phải được đáp ứng, hàng hóa và dịch vụ phải được cung cấp
và phân phối trong sự công bằng. PTBV chủ trương can thiệp vào kinh tế-xã
hội để thống nhất các chính sách hoặc đường lối ngõ hầu thực hiện những đổi
thay mong muốn, tạo điều kiện cho con người có tiến bộ. PTBV thừa nhận rằng mỗi
xã hội, mỗi dân tộc có yêu cầu và lý do để định những phương hướng phát triển
và chọn những phương thức hành động riêng. Mục tiêu cuối cùng của PTBV là thỏa
mãn yêu cầu căn bản của con người, cải thiện cuộc sống của tất cả và song song
bảo toàn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn định. PTBV cho
rằng cần phải hoạt động sản xuất có giới hạn, tiêu dùng và thụ hưởng có tiết kiệm,
phân phối công bằng thu nhập, điều hòa dân số và nhân lực, bảo đảm sự cân bằng
giữa nhu cầu có khuynh hướng gia tăng nhanh với tài nguyên bị hạn chế. PTBV đề
cao các gía trị nhân bản, tính công bằng trong sản xuất, tiêu dùng và thụ hưởng.
Nó nhắm thực hiện và đảm bảo sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia, giữa
hiện tại với tương lai. PTBV có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Nó chủ
trương có sự tham gia đóng góp của tất cả các đối tượng thụ hưởng, tạo tính sở
hữu kế hoạch và kết quả hoạt động, xây dựng tinh thần trách nhiệm. PTBV là một
dự án nằm trong tinh thần của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền công bố năm
1948.
Một chính sách phát triển
bền vững thể hiện tính bền vững về các mặt xã hội, kinh tế, môi trường và chính
trị:
·
Về mặt xã hội, bền vững có nghĩa xã hội công bằng, cuộc sống an bình. Sự
PTBV cần đề phòng tai biến, không để có người sống ngoài lề xã hội hoặc bị xã hội
ruồng bỏ. Xã hội một nước không thể PTBV nếu có một tầng lớp xã hội đứng ngoài
công cuộc xây dựng và mở mang quốc gia. Thế giới sẽ không có PTBV về mặt xã hội
nếu cuộc sống hoặc tính mạng của một phần nhân loại bị đe dọa vì bệnh tật, đói
nghèo, thiên tai, v.v. PTBV về mặt xã hội còn có nghĩa con người có môi trường
sống hài hòa, công bằng và có an sinh.
·
Về mặt kinh tế, cần phải phân biệt phát triển với tăng trưởng. Tăng trưởng
chú trọng tới vật chất và số lượng, tích lũy và bành trướng trong khi phát triển
quan tâm tới tiềm năng, phẩm chất, phục vụ con người một cách toàn diện, về vật
chất lẫn tinh thần. PTBV về mặt kinh tế nghịch với gia tăng sản xuất không giới
hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách, thương mại hóa bất cứ hàng hóa hoặc dịch
vụ nào, tìm lợi nhuận tối đa trong mọi hoàn cảnh. PTBV kinh tế đòi hỏi phải cân
nhắc ảnh hưởng bây giờ hay sau này của hoạt động và tăng trưởng sản xuất lên chất
lượng cuộc sống, cứu xét xem có gì bị hư hại, bị phí phạm.
·
PTBV về phương diện môi trường có nghĩa phải bảo vệ khả năng tái sinh của
hệ sinh thái, nhịp độ gia tăng sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp
hơn tốc độ tái sinh, việc sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải
tùy thuộc khả năng sáng chế tư liệu thay thế. Sau cùng, mức độ ô nhiễm phải thấp
hơn khả năng tái tạo của môi trường, môi sinh. Yêu cầu bền vững về môi trường-môi
sinh buộc phải giới hạn sự tăng trưởng kinh tế. Cần phải thừa nhận rằng kinh tế
chỉ là một bộ phận của hệ sinh thái và phát triễn kinh tế phải bảo vệ môi trường-môi
sinh.
·
Về phương diện chính trị, PTBV có nghĩa hết hợp và dung hòa các vấn đề
xã hội, kinh tế và môi trường để hệ thống tổ chức và sinh hoạt chính trị không
có căng thẳng, xáo trộn, có thể đi tới rối loạn hoặc đổ vỡ. Các định chế chính
trị cần phải phải tôn trọng và bảo vệ công bằng, khuyến khích các đối tượng thụ
hưởng đối thoại và tham gia trong tinh thần phù hợp với các nguyên tắc dân chủ
tự do. Tính quan liêu và bàn giấy phải được xóa bỏ vì nó trói buộc con người,
đè nén xã hội, cản trở mọi sự đổi thay, tiến bộ. Tôn trọng đạo lý cũng là một
yêu cầu rất cần, gần như một bắt buộc.
.
3. Những định
đề và điều kiện của phát triển bền vững
PTBV trong thực tế là một
dự án rất lớn rộng có những định đề và cần một số điều kiện. Từ luận thuyết
PTBV và những nguyên tắc định hướng, để kinh tế-xã hội phát triển một cách bền
vững cần có một số điều kiện. Những điều kiện này nhiều khi không trùng hợp với
nhau và cần phải dung hòa để tìm sự cân bằng và hợp lý:
·
Dân chủ: Tinh thần và các nguyên tắc dân chủ không phải
là điều kiện tiên quyết hoặc không có không được, tuy nhiên, khái niệm PTBV
không thể phổ biến và lưu truyền rộng rãi, rồi đem ra áp dụng nếu thiếu tinh thần
dân chủ, nếu không tôn trọng các nguyên tắc sinh hoạt dân chủ. Chẳng hạn làm
sao bảo đảm công bằng, đảm bảo các thế hệ tương lai có điều kiện để thỏa mãn
yêu cầu phát triển về sau nếu các tổ chức và các hoạt động không có sự tham gia
bằng tham khảo ý kiến, phát biểu lập trường, bày tỏ yêu cầu của tất cả các đối
tượng thụ hưởng. Mỗi cá nhân có quyền và nhu cầu xây dựng một cuộc sống an
lành, xung quanh có môi trường có phẩm chất, có di sản sinh thái được bảo toàn.
Quyền lợi cá nhân cần phải hòa hợp với ích lợi của tập thể trong tinh thần dân
chủ tự do.
·
Công bằng và bình
đẳng: PTBV phụ thuộc rất
nhiều vào sự công bằng và bình đẳng. Tùy mức độ của nó, khác biệt giầu nghèo giữa
các tầng lớp dân chúng sẽ nhiều hay ít, những chương trình xóa đói giảm
nghèo như do Ngân Hàng Thế Giới và Qũy Tiền Tệ Quốc Tế đề xướng sẽ đạt được
thành công tới mức độ nào. Công bằng và bình đẳng ảnh hưởng khả năng và mức độ
thỏa mãn yêu cầu của các thành phần xã hội. Tình trạng vay nợ và khả năng hoàn
nợ của các nước chậm tiến tùy thuộc vào sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ
giữa các nước trên thế giới. Có thêm công bằng và bình đẳng thì các nước nghèo
sẽ có điều kiện thuận lợi để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự chậm tiến và như
vậy sẽ đóng góp thỏa đáng cho PTBV trong nước và trên thế giới.
·
Tinh thần liên đới
phụ thuộc lẫn nhau: PTBV
của mỗi quốc gia và PTBV thế giới phụ thuộc lẫn nhau. PTBV của thế hệ về sau có
liên hệ chặt chẽ với PTBV của thế hệ ngày nay. PTBV cá nhân cũng tùy thuộc PTBV
quốc gia. PTBV thế giới liên hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường-môi sinh tại mỗi
quốc gia. Cộng đồng thế giới và dân tộc mỗi nước có quyền lợi chung để phòng chống
ô nhiễm, bảo toàn di sản sinh thái. Trong mọi lãnh vực, những quan hệ hợp tác
quốc tế, giao dịch và trao đổi ngày càng nhiều cho thấy sự liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau giữc các nước. Nhằm giải quyết các thử thách lớn như xóa đói giảm nghèo,
quản lý tiến trình toàn cầu hóa, bảo vệ môi trường-môi sinh tinh thần liên đới
là một điều kiện chính.
·
Quyền tự quản, tự
quyết: Dự án PTBV không
thể tiến hành được nếu quyền tự quản, tự quyết của các quốc gia, các sắc tộc,
các đoàn thể, v.v. trong việc chọn lựa hướng đi không được thừa nhận và tôn trọng.
Những khác biệt trên thế giới về điều kiện khách quan, phương tiện hành động,
năng lực phát triển, yêu cầu sản xuất và tiêu dùng, v.v. đòi hỏi phải dung hòa
các mục tiêu chung và toàn cầu với quyền lợi dân tộc của mỗi quốc gia. PTBV đòi
hỏi phải thiết lập những quan hệ đối tác thực tiễn và hợp lý để song song tiến
hành chiến lược chung về PTBV và thực hiện các kế hoạch quốc gia.
·
Tinh thần trách
nhiệm và gánh chịu: Dự
án PTBV là một công cuộc phức tạp, không đặt ra khuôn khổ và những quy tắc mẫu
mực rõ rệt có tính bắt buộc. Chính sách và chương trình PTBV chờ đợi các đối tượng
thụ hưởng thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật tự giác, khả năng gánh
chịu hậu quả nếu xẩy ra. Vì sự liên hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường và ảnh
hưởng của nó lên tất cả các khía cạnh của cuộc sống, PTBV còn đòi hỏi hành động
phải có cân nhắc và cẩn trọng với mục đích chính là để tránh gây cho môi trường-môi
sinh những hậu quả không đảo ngược được. PTBV còn một điều kiện nữa là khả năng
kiểm tra kết quả hoạt động và phương tiện phòng ngừa và sửa chữa tai biến.
·
Giáo dục, huấn luyện
và thông tin: Dự án PTBV, các
chương trình bảo vệ môi trường-môi sinh không thể tiến hành, có hiệu lực và có
kết quả nếu quần chúng không nhận thức đúng mức về yêu cầu phát triển kinh tế-xã
hội, không ý thức được tầm quan trọng của các vần đề và thử thách thời đại và
không chấp nhận những bắt buộc hoặc điều kiện của PTBV. Giáo dục, huấn luyện và
thông tin là những yếu tố không kém quan trọng so với các điều kiện trước của
PTBV.
4. Những thử
thách và giới hạn của phát triển bền vững
Những thách thức thực sự cho sự
phát triển bền vững. Nguồn: The Scientific World
Từ các định đề và điều kiện
của PTBV vừa nêu, thi hành dự án PTBV gặp nhiều thử thách và bị giới hạn hành động
đáng kể. Bởi phạm vi rất rộng và nội dung rất đầy đủ cho nên công cuộc thực hiện
PTBV phức tạp và khó khăn, xúc tiến chậm từ khi Chương Trình Nghị Sự Thế Kỷ 21
(Agenda 21/Action 21) được tán thành và biểu quyết tại Hội nghị Rio de Janeiro
năm 1992.
Chương Trình Nghị Sự Thế
Kỷ 21 định ra bốn khu vực hành động:
·
Phát triển kinh tế-xã hội: Chủ yếu là xóa đói giảm nghèo, quản lý
gia tăng dân số, quản lý cách sống và các hình thức tiêu dùng và xản xuất.
·
Bảo vệ môi trường-môi sinh, bảo toàn thiên nhiên, tài nguyên và hệ sinh
thái, quản lý các loại chất thải.
·
Khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia, đóng góp của các đối tượng thụ hưởng,
tinh thần đối thọai và hợp tác, sự công bằng bình đẳng về giới, giữa các sắc tộc
và các thế hệ, v.v.
·
Soạn ra những chương trình và biện pháp, thiết lập những định chế và cơ
chế, sử dụng những phương tiện cần thiết để kinh tế-xã hội chuyển đổi theo hướng
phát triển bền vững.
Việc thực thi Nghị
Trình Thế Kỷ 21 trong hơn mười năm vừa qua cho thấy có những khó khăn
chính sau đây:
·
Dự án PTBV gặp nhiều cản trở bắt nguồn từ hình thức và tính chất của tiến
trình toàn cầu hóa dập khuôn theo học thuyết kinh tế tân tự do thuận lợi cho
khu vực tư nhân, các công ty xuyên quốc gia và các nước giầu. Khuynh hướng tự
do hóa thương mại ảnh hưởng bất lợi lên công cuộc bảo vệ môi trường-môi sinh,
không cắt giảm phân cực giầu nghèo mà trái lại dành lợi thế cho các nước đã
phát triển.
·
Xóa đói giảm nghèo là một mục tiêu trọng yếu của dự án PTBV nhưng các
nước chậm tiến không thoát được khỏi vòng luẩn quẩn vì một mặt vay nợ chồng chất,
mặt khác thiếu đủ mọi phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính, nhân lực, tri
thức, v.v. để giúp kinh tế-xã hội có những bước tiến tối thiểu.
·
Nghị Trình Thế Kỷ 21 đề ra hướng đi và mục tiêu cho PTBV
nhưng không xác định được các định chế toàn cầu hay quốc gia và cơ chế cần thiết
để khuyến khích hoặc thúc đẩy các quốc gia, khu vực tư nhân, các công ty xuyên
quốc gia, v.v. chấp nhận và thực thi Chương Trình Nghị Sự.
·
Các nguồn tài chính đã dự tính để thực hiện một phần Chương Trình Nghị
Sự Thế Kỷ 21 không đạt được mức chờ đợi (chủ yếu là viện trợ phát triển chính
thức không đạt được tỷ lệ 0,7% tổng sản lượng quốc gia của các nước giầu). Các
nguồn tài chính khác cũng thiếu hụt hoặc phân chia bất lợi cho PTBV (chẳng hạn
đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng nhưng tập trung vào một số nước và vài khu
vực).
Từ những khó khăn chủ yếu
vừa kể nhiều thử thách khác nẩy sinh ra khiến càng giới hạn việc thực hiện dự
án PTBV và làm Thế Kỷ 21 kém hiệu lực. Những thử thách thường được
nhắc tới nhiều nhất gồm có:
·
Vấn đề quản lý và điều hợp tiến trình toàn cầu hóa để tạo thuận lợi
cho PTBV: Cơ quan nào, tổ chức nào có thể giữ vai trò này? Yêu cầu
thành lập các định chế có trách nhiệm và năng lực quản lý các chương trình hành
động đã được đặt ra nhưng chưa có giải đáp.
·
Một thử thách khác là công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các nước chậm tiến
hầu như hoàn toàn thuộc trọng trách của nhà nước, không nằm trong phạm vi hoặc
không nhận được sự đóng góp của khu vực tư nhân trong và ngoài nước. Cơ chế thi
trường và đầu tư nội địa hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài không có hiệu lực
trong việc cung cấp phương tiện và thỏa mãn yêu cầu về giáo dục, vệ sinh, y tế,
an ninh lương thực, nước sạch, bảo vệ thiên nhiên, v.v..
·
Do thiếu các định chế và cơ chế để quản lý dự án PTBV, các định đề và
điều kiện của PTBV không được thỏa mãn như cần thiết. Các quốc gia diễn nghĩa
khác nhau định hướng và chương trình hành động, gây nhiều bất đồng ý kiến và
tranh cãi song phương hoặc đa phương. Việc giải quyết các bất đồng này rất phức
tạp, dựa trên hàng trăm công ước và tuyên ngôn quốc tế và đòi hỏi nhiều thời
gian và rất tốn kém.
·
Công tác thực hiện PTBV không hội đủ những điều kiện thuận lợi nhất.
Cụ thể là thiếu cơ quan xét sử, thiếu cơ chế có tính ràng buộc, thiếu mạch lạc
thống nhất giữa quy chế Tổ Chức Thương Mại Thế Giới và các công ước và tuyên
ngôn quốc tế. Tình trạng này kéo dài thúc giục phải giải quyết tới mức trong
nhiều trường hợp chính các công ty xuyên quốc gia và các tổ chức phi chính phủ
đứng ra khởi xướng tìm đồng thuận và giải pháp, tuy với những lý do khác nhau.
·
Phát triển bền vững là một dự án đầy tham vọng, vô cùng tốn kém và là đề
tài tranh cãi giữa các nước giầu và các nước nghèo. Các nước chậm tiến có thu nhập
thấp có ưu tiên là thỏa mãn các yêu cầu tối thiểu của người dân và xem Thế
Kỷ 21 là thứ yếu. Những điều kiện cho vay và tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới
và Qũy Tiền Tệ Quốc Tế cùng với số lượng viện trợ phát triển chính thức thiếu hụt
so với yêu cầu PTBV đã khiến các nước nghèo không thể theo con đường này được.
Tại các nước này Chương Trình Nghị Sự tiến hành rất khó khăn và chậm.
·
Nói chung, PTBV thiếu hụt rất nhiều phương tiện tài chính. Hiện nay có
ba cách giúp các nước chậm tiến có các nguồn tài chính cần thiết là: viện
trợ phát triển chính thức, các nguồn tài chính đa phương (Qũy Môi Trường Toàn Cầu/Fonds
pour l’environnement mondial/Global Environment Facility) và cách thứ ba là giảm
nợ cho các nước mắc nợ nhiều. Ngoài ra có vài phương pháp gây qũy để hỗ trợ
chương trình PTBV của các nước chậm tiến đang được thảo luận là tài trợ qua hệ
thống hợp tác quốc tế, thành lập qũy đặc biệt, thu thế đặc biệt, v.v.
5. Phát triển bền
vững và vấn đề đói nghèo và tiến trình toàn cầu hóa
Trong số các thử thách và
khó khăn mà dự án PTBV phải đối phó, quan trọng nhất là tình trạng đói nghèo tại
các nước chậm tiến và tiến trình toàn cầu hóa.
5.1. Phát triển bền
vững và đói nghèo trên thế giới
Tình trạng đói nghèo trên
thế giới là một vấn đề lớn vì không thể có PTBV nếu trong hơn 6 tỷ người trên
thế giới có 2,6 tỷ người sống với dưới 2 mỹ kim/ngày, 1,2 tỷ người sống với dưới
1 mỹ kim/ngày, 800 triệu người bị suy dinh dưỡng và 800 triệu người không biết
đọc không biết viết. Mục tiêu đầu tiên của PTBV là thỏa mãn các yêu cầu tối thiểu
về ăn mặc, vệ sinh, sức khỏe, nhà ở, nước sạch, giáo dục, v.v.. Ngoài ra tình
trạng đói nghèo liên hệ chặt chẽ với sự cân bằng của hệ sinh thái và với chất
lượng của môi trường-môi sinh. Tại các nước giầu, nói chung, thành phần xã hội
có thu nhập thấp thường có nhận thức kém về bảo vệ môi trường-môi sinh và có cuộc
sống gây ô nhiễm nhiều hơn tầng lớp có nếp sống cao. Còn tại các nước chậm tiến,
vì phải thỏa mãn các yêu cầu tối thiểu và vì thiếu phương tiện tài chính, kỹ
thuật, vật chất và tri thức cho nên không có khả năng bảo vệ môi trường-môi
sinh. Không những thế, tại các nước này, hệ sinh thái bị hư hại, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Cuối
cùng phát triển kinh tế-xã hội thu hẹp thành tăng trưởng sản xuất và tiêu dùng,
rồi hầu như hoàn toàn mất tính bền vững, không còn có tầm xa. Tình trạng đói
nghèo ảnh hưởng bất lợi lên môi trường-môi sinh tới mức khiến cựu thủ tướng
Indira Gandhi đã tuyên bố rằng “đói nghèo là thủ phạm gây ô nhiễm đáng sợ nhất”.
Những quốc gia giầu
đã thỏa thuận năm 1992 tại Rio de Janeiro sẽ dành 0,7% tổng sản lượng quốc gia
để viện trợ phát triển cho các nước chậm tiến trong công cuộc xóa đói giảm
nghèo nói riêng, phát triển bền vững nói chung. Tuy nhiên, chỉ có bốn quốc gia
đạt được tỷ lệ đã được chấp thuận. Nói chung, viện trợ phát triển chính thức của
các nước đã phát triển chỉ lên tới khoảng 0,25% tổng sản l ượng quốc gia và có
khuynh hướng giảm sút.
Trong những năm vừa qua,
số người nghèo trên thế giới giảm chậm và chênh lệch giầu nghèo gia tăng. Tiến
trình toàn cầu hóa không giúp làm cắt giảm mức độ đói nghèo. Tình trạng nghiêm
trọng đã buộc Ngân Hàng Thế Giới và Qũy Tiền Tệ Quốc Tế đưa ra chiến lược xóa
đói giảm nghèo và chương trình giảm nợ cho các nước vay nợ nhiều nhất và không
có khả năng thi hành nghĩa vụ hoàn nợ. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ
nhóm họp tại New York (tháng 9 năm 2000) các nước hội viên Tổ chức Liên Hiệp Quốc
đã thỏa thuận đặt mục tiêu là giảm một nửa tỷ lệ số người đói nghèo trên thế giới
vào năm 2015. Dựa trên những bước tiến của dự án PTBV trên thế giới trong ba
năm vừa qua thì không có nhiều triển vọng mục tiêu vô cùng căn bản này sẽ được
thực hiện.
5.2. Phát triển bền
vững và tiến trình toàn cầu hóa
Mặc dù tiến trình toàn cầu
hóa đã có những chuyển đổi tích cực song nó vẫn còn dựa trên học thuyết kinh tế
tân tự do và nguyên tắc thị trường tự điều hòa. Hình thức của tiến trình toàn cầu
hóa hiện nay còn thiếu công bằng. Các quan hệ quốc tế về kinh tế, thương mại,
tài chính mà tiến trình toàn cầu hóa đã đưa tới một trình độ phát triển rất cao
hoàn toàn thiếu tính bình đẳng. Trong những điều kiện như vậy các quốc gia chậm
tiến có thu nhập thấp rất khó thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo để
thực sự bước vào con đường PTBV.
Tiến trình toàn cầu hóa
đã đem lại nhiều lợi ích cho thế giới. Tuy nhiên sự phân chia những lợi ích này
thiếu công bằng vô cùng và được thực hiện trong hoàn cảnh những quan hệ trao đổi
và hợp tác quốc tế không bình đẳng. Do đó, bên cạnh những lợi ích và tiến bộ,
tiến trình toàn cầu hóa cũng gây ra nhiều điều không thuận lợi cho sự PTBV nói
chung, cho sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước chậm tiến nói riêng, chủ yếu
là:
·
Sự tập trung của cải giầu có và quyền lực kinh tế vào một số giới hạn
quốc gia, công ty xuyên quốc gia, thành phần xã hội, tổ chức, cơ quan, v.v.
·
Môi trường-môi sinh bị ô nhiễm nghiêm trọng, dự trữ tài nguyên thiên
nhiên bị cạn kiệt, hệ sinh thái bị mất cân bằng.
·
Hố cách biệt giầu nghèo trên thế giới sâu hơn, quan hệ quốc tế căng thẳng,
tranh chấp giữa các quốc gia gay go, an ninh thế giới bị đe dọa.
·
Tình trạng đói nghèo trên thế giới không được cải thiện. Các nước chậm
tiến bị kìm giữ trong thế phụ thuộc các nước giầu, bị vay nợ đè nặng không có
cách tiến lên.
·
Tiến trình toàn cầu hóa hoàn toàn do các công ty xuyên quốc gia và các
nước giầu hướng dẫn để giành giữ phần lợi riêng và theo những giá trị nghịch với
các định đề và điều kiện của PTBV.
Trong tình trạng hiện nay,
tiến trình toàn cầu hóa gây khó khăn cho sự PTBV về hai phương diện chính là
kinh tế và môi trường-môi sinh. Tiến trình toàn cầu hóa về mặt kinh tế và về mặt
môi trường-môi sinh có những quan hệ ảnh hưởng hỗ tương. Những thử thách kinh tế
mà tiến trình toàn cầu hóa đặt ra cho sự PTBV kéo theo những thử thách về
phương diện môi trường-môi sinh. Ngược lại, những thử thách về hai phương diện
môi trường-môi sinh và kinh tế mà sự PTBV phải đối phó xẩy ra cũng như vậy.
Tiến trình toàn cầu hóa
theo nguyên tắc thị trường tự điều hòa là điều bất lợi cho PTBV. Tiến trình
toàn cầu hóa và PTBV có những liên hệ mật thiết nhưng theo hai hướng đi rất
khác nhau và đặt ra những mục tiêu có khi đối nghịch nhau. Cả hai đều không có
tổ chức hay cơ quan quốc tế quản lý và điều hợp, không theo những quy tắc có
tính cách ràng buộc hay bắt buộc phải tuân theo. Vấn đề này là một thử thách rất
lớn cho thế giới bước vào thiên niên kỷ mới.
6. Kết quả phát
triển bền vững và viễn tượng tương lai
Tại Hội nghị Thượng đỉnh
về Phát Triển Bền Vững tổ chức tại Johannesburg (26 tháng 8 tới 4 tháng 9 năm
2002), Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một bản đúc kết thực hiện Chương Trình
Nghị Sự Thế Kỷ 21 không mấy lạc quan nếu nhìn một cách ngắn hạn và tìm những
thành quả cụ thể. Hội nghị đã xác định lại cam kết thực hiện và tiếp tục ủng hộ
Chương Trình Nghị Sự Thế Kỷ 21. Hội nghị cũng đã thể hiện những khác biệt rất
rõ về quyền lợi, mục tiêu và thứ tự ưu tiên hành động của các nước xung quanh
ba vấn đề trọng yếu là PTBV, tiến trình toàn cầu hóa và môi trường-môi sinh. Cụ
thể những bất đồng quan điểm chính là:
·
Cách thức thi hành các định đề, nguyên tắc và điều kiện của PTBV
·
Các nguồn lực và phương tiện tài chính cần thiết để thực hiện PTBV
·
Các cơ chế cần thiết cho việc quản lý và điều tiết tiến trình toàn cầu
hóa, đặc biệt về hai mặt kinh tế và thương mại
·
Thời biểu quy định chương trình thực hiện các mục tiêu của PTBV
·
Quan hệ giữa phát minh và tiến bộ kỹ thuật với yêu cầu của PTBV
·
Yêu cầu thống nhất và tạo mạch lạc về chính sách, mục tiêu và phương
pháp bảo vệ môi trường-môi sinh giữa các tổ chức.
Thỏa mãn yêu cầu của hơn
6 tỷ người, của thế hệ bây giờ và thế hệ tương lai không phải là một công tác
giản dị. Dung hòa quyền lợi quốc gia với quyền lợi khu vực và quyền lợi quốc tế
là một trách nhiệm nặng nề không dễ hoàn tất. PTBV không phải là một dự án có sẵn
phương tiện để thực hiện, có phương thức hành động đã soạn trước.
PTBV là một dự án cần thiết,
một dự án tốt khiến được sự ủng hộ toàn cầu. Chắc chắn nó chỉ thực hiện được
qua nhiều thế hệ. Kết quả hành động của nó cũng khó đánh giá sau một hay hai thập
niên. Cho tới bây giờ trong công cuộc thực hiện PTBV, những thử thách và khó
khăn mới xuất hiện nhiều hơn số thử thách và khó khăn đã giải quyết. Thực tế
này không đủ và không thể là lý do để bảo rằng PTBV là một dự án viển vông và
khái niệm PTBV chỉ có giá trị về mặt lý thuyết.
© 2023 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn
và đọc “Thể lệ trích
đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Đăng lần đầu trên DCVOnline tháng 9 năm
2003
No comments:
Post a Comment