Posted
on 28/03/2018
Sự
kiện chính phủ Việt Nam dừng dự án Cá
Rồng Đỏ, một dự án dầu khí quan trọng ở biển Đông, do áp lực từ Trung Quốc
đang làm nóng lại các tranh luận về tranh chấp biển Đông tại Việt Nam.
Có
thể điểm qua một số dữ kiện cơ bản của vụ việc:
Dự án mỏ khí Cá Rồng Đỏ là dự án mỏ sâu của Việt Nam nằm
ngoài khơi biển Đông tại Lô số 07/03, thuộc Bể Nam Côn Sơn, cách bờ biển Vũng Tàu
440 km.
Mỏ
này được cho là gồm 12 cụm giếng, và sẽ cung ứng 25.000-30.000 thùng dầu/ngày
và 60 triệu m3 khí/ngày. Tổng giá trị hợp đồng của dự án này có thể lên đến 1,2
tỷ đô la.
Công
ty dầu khí Repsol (Tây Ban Nha) và các đối tác đã đầu tư sẵn sàng cho việc khai
thác dự án Cá Rồng Đỏ. Tuy nhiên theo tin tức trong ngành dầu khí mới đây, ngày
23/03/2018, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đã yêu cầu Repsol ngừng
khai thác.
Việc
ngừng khai thác này có thể khiến cho Repsol và các đối tác thiệt hại khoảng 200
triệu đô la đã đầu tư.
Hiện chưa rõ
ràng là Bộ Chính trị Việt Nam sẽ quyết định dừng hay chấm dứt hoàn
toàn dự án này.
Thực
sự, chuyện Trung Quốc dùng sức ép để ngăn cản việc khai thác dầu khí trên các
vùng biển thuộc biển Đông vốn đang tranh chấp chủ quyền với Việt Nam và nhiều
nước khác là chuyện đã diễn ra từ lâu.
Và
Trung Quốc nhiều khi không cần gián tiếp ép Việt Nam buộc các công ty nước
ngoài ngừng làm ăn.
Nếu
bạn đọc đang tìm một tài liệu hay một cuốn sách giúp hiểu sâu rộng về những
chiêu trò dùng sức ép như thế của Trung Quốc trên biển Đông, có thể tìm ngay đến
cuốn “Biển Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á” của
nhà báo, nhà nghiên cứu người Anh Bill
Hayton.
Nhà nghiên cứu Bill
Hayton trong một buổi thuyết trình về tranh chấp biển Đông – Ảnh: youtube.com
Hayton
tốt nghiệp Đại học Cambridge, và là một phóng viên quốc tế lâu năm của kênh tin
tức BBC. Ông đặc biệt tập trung vào khu vực Đông Nam Á và đã viết hai cuốn sách
nói riêng về chính trị Việt Nam.
Những
gì ông đã viết và nhận xét đủ mức “gây tranh cãi” để chính quyền Việt Nam cấm ông nhập cảnh vào Việt Nam năm 2012.
Trong
hơn 300 trang sách đầy ắp thông tin nghiên cứu của “Biển Nam Trung Hoa…”,
người đọc bắt gặp một giọng văn báo chí vừa khá cuốn hút, vừa cung cấp các tường
thuật chi tiết, hệ thống, và khá rõ ràng về cuộc tranh chấp chủ quyền biển
Đông.
Tác
giả nhìn cuộc tranh chấp một cách công tâm (không thiên vị bên nào) và bằng nhiều
lăng kính: lịch sử, pháp luật, ngoại giao v.v.
Nhưng
lăng kính thú vị nhất có lẽ là lăng kính “trinh thám doanh nghiệp” khá sống động
mà bạn đọc sẽ được cùng Café Luật Khoa nhìn qua trong trích đoạn dưới đây.
Trích
đoạn “Biển
Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á” (The South China Sea: The
Struggle for Power in Asia) – Nhà xuất bản Đại học Yale 2014 – Tác giả: Bill
Hayton
Luật
Khoa trích đoạn và dịch từ sách gốc bản tiếng Anh (cách dòng do người
trích, hình minh họa không thuộc nội dung trong sách)
“…
BP [British Petroleum – Dầu khí Anh Quốc] đã có mặt ở Việt Nam từ năm 1989
nhưng phải mất đến cả thập niên trước khi trở thành một trong những công ty quốc
tế làm ra được tiền tại đây.
Năm
2002, mỏ khí Lan Tây trên Lô số 6.1, nằm cách bờ 362km, bắt đầu bơm gas vào một
trong những đường ống dẫn ngầm dưới nước dài nhất thế giới. Ống này bơm về một
nhà máy điện qua một lối đi vào cửa biển, ngang qua trước mặt khách sạn Grand
Hotel [Vũng Tàu – ND].
Năm
2006, khí đốt của BP được dùng để tạo ra một phần ba lượng điện năng của Việt
Nam. Và còn nhiều khí đốt nữa sẽ được khai thác bởi vì công ty này lúc đó có
quyền khai thác trên hai lô khác đang được thăm dò. BP đã “ngồi chờ” trên
hai lô này hàng năm trời, chờ đợi thời điểm họ cảm thấy chắc rằng nền kinh tế
Việt Nam sẽ đạt mức nhu cầu để đảm bảo phải mở rộng sản xuất điện, và theo đó
là khí đốt.
Năm
2007, khi Việt Nam vừa trở thành thành viên Tổ chức Thương Mại Quốc tế (World
Trade Organisation – WTO) và các nhà đầu tư tên tuổi bắt đầu đổ xô đến nước
này, thì BP mới sẵn sàng để gắn bó lâu dài.
Tháng
3/2007, BP công bố kế hoạch phát triển hai mỏ khí trên Lô 5.2 rồi họ hoặc là nối
chúng với ống dẫn sẵn có, hoặc là đã lắp ống dẫn mới. Một nhà máy điện khác được
lên kế hoạch xây dựng trên bờ để biến khí đốt thành điện năng cho đất nước và
thành tiền cho BP. Thời gian dự án không nói rõ nhưng đối tác của BP là
PetroVietnam gợi mở rằng khí đốt sẽ có từ năm 2011.
Cũng
trong khoảng năm 2007, Đại sứ Trung Quốc tại Australia, bà Fu Ying [Phó Oánh]
đang lên những kế hoạch riêng của bà ta trong lúc chuẩn bị nhận một vị trí mới
tại London.
Bà
Phó từng có ít nhiều qua lại trong quá khứ với BP.
Năm
2000, khi BP công bố kế hoạch phát triển Lô 6.1, bà đang là giám đốc Phòng Châu
Á Vụ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Theo
một nguồn tin cao cấp bên trong BP, bà Phó đã nhiều lần bày tỏ rất mạnh mẽ cho
lãnh đạo BP tại Bắc Kinh và Đông Nam Á biết đòi hỏi của Trung Quốc rằng BP phải
dừng dự án này vì nó xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.
Khu vực đường “lưỡi
bò” mà Trung Quốc đang tuyên bố là thuộc chủ quyền của họ – Ảnh: BBC
Hồi
năm 2000, Giám đốc điều hành BP là John Browne, một người dày dặn kinh nghiệm
chiến trận tại các vùng “tiền phương”.
Ông
Browne đơn giản phớt lờ các phản đối của bà Phó và dự án Lô 6.1 vẫn đã tiếp diễn.
Nhưng
vào ngày 1 tháng 5 năm 2007, ông Browne từ chức tại BP sau một vụ bê bối cá
nhân. Người thay thế ông ta là Tony Hayward.
Bà
Phó Oánh tới London vào ngày 10 tháng 4 năm 2007. Cùng ngày, Bắc Kinh bắc đầu tỏ
ra hiếu chiến trong một thế trận mới với BP.
Trả
lời một câu hỏi “mớm bài” từ một phóng viên truyền hình quốc gia Trung Quốc,
phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Qin Gang [Tần Cương] tuyên bố, “Các động
thái mới của Việt Nam là bất hợp pháp và vô căn cứ… không có lợi cho sự ổn định
của khu vực biển Nam Trung Hoa.”
Lạ
lùng là cái lô mà Bắc Kinh đang phàn nàn – Lô 5.2 – lại nằm sâu trong vùng biển
Việt Nam hơn chính Lô 6.1 mà BP đang vận hành.
Không
hề gì: đây là một cơ hội cho bà Phó Oánh trả thù.
Một
trong những điều đầu tiên bà ta làm khi vừa mở valy hành lý ở London là đòi gặp
lãnh đạo mới nhậm chức của BP, Tony Hayward.
BP
biết khá rõ chuyện gì sẽ tới. Họ cho gọi các lãnh đạo cao cấp từ Việt Nam sang
London để chuẩn bị bàn bạc. Các lãnh đạo BP tại Việt Nam trình bày lý lẽ mạnh mẽ
cho việc BP phải tiếp tục dự án rồi để cho Hayward và nhóm của ông ta xử lý phần
còn lại.
Tính
tới năm 2007, BP là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc. Danh mục
đầu tư lên đến 4.2 tỷ đô la Mỹ của BP tại Trung Quốc bao gồm các nhà máy hóa dầu,
các cơ sở khai thác khí đốt xa bờ, 800 trạm xăng dầu và 30% cổ phần trong trạm
tiếp nhận khí tự nhiên hóa lỏng đầu tiên của Trung Quốc, cùng nhiều hạng mục
khác.
Bà
Phó Oánh biết rõ những điều trên và vào ngày 18 tháng 5 năm 2007, bà ta dùng
chúng trong các buổi họp mặt tại tổng hành dinh BP. Bà ta đưa ra các phản đối của
mình dành cho hoạt động của BP trên các vùng biển đang tranh chấp, và sau đó,
theo một nguồn tin bên trong BP, đã đưa ra hai cảnh báo chi tiết: đầu tiên, nếu
BP tiến hành dự án Lô 5.2, nhà chức trách Trung Quốc sẽ xem xét lại các hợp đồng
đang có với BP; thứ hai, Trung Quốc sẽ không đảm bảo an toàn cho nhân viên của
BP làm việc trong các vùng tranh chấp.
Đó
có vẻ là một lời đe dọa thẳng thừng dành cho cả công việc kinh doanh lẫn tính mạng
các nhân viên tham gia dò tìm và sản xuất dầu khí của BP.
Không
có kinh nghiệm làm việc với các chính thể “du côn” (roughhouse) như người tiền
nhiệm của mình, Hayward đã sửng sốt. Ông ta thỏa thuận với bà Phó – BP sẽ
tiếp tục hoạt động Lô 6.1 nhưng sẽ ngừng các hoạt động tại Lô 5.2.
Bà
Phó đã trả thù thành công.
Phó Oánh – Tony
Hayward: không phải một cuộc đấu tay đôi – Ảnh: asiamedia.lmu.edu,
investigatemagazine.co.nz
Đó
là mớ bòng bong mà Gretchen Watkins [giám đốc BP Việt Nam mới nhậm chức vào năm
2007] thừa hưởng khi bà ta tới Vũng Tàu hai tuần sau đó.
BP
ký kết hợp đồng với PetroVietnam (đại diện cho chính quyền Việt Nam) trong khi
công ty Mỹ ConocoPhillips thì tiến hành khảo sát và thăm dò trong Lô 5.2.
Nhìn
từ các điện tín ngoại giao của Mỹ mà Wikileaks để lộ thì có vẻ là BP đã không hề
cho các đối tác của họ biết thỏa thuận của Hayward với bà Phó Oánh cho tới ngày
8 tháng 6 năm 2007 khi BP hủy bỏ kế hoạch công tác trong năm 2007.
Cả
ConocoPhillips và PetroVietnam đều không để cho BP thoát. Watkins tự thấy rằng
bà ta hoàn toàn không có năng lực đối đầu với một cơn bão pháp lý và địa chính
trị thế này.
Ngày
13 tháng 6 năm 2007, tin tức bắt đầu lộ ra ngoài rằng BP đã tạm dừng việc khảo
sát địa chấn mà họ đã lên kế hoạch. Trong hai ngày sau đó, ngài Đại sứ Hoa Kỳ tại
Hà Nội là ông Michael Marine đã gặp cả ngài Đại sứ Anh và đại diện công ty
ConocoPhillips.
Trong
tường thuật về các buổi gặp này (do Wikileaks công bố), ConocoPhillips phàn nàn
rằng PetroVietnam đang đòi hỏi họ phải hoàn thành hợp đồng công tác bất kể việc
BP đã tạm dừng. Đại sứ Anh ông Robert Gordon thì nói với ông Marine rằng Anh quốc
đang gửi một quan chức cấp cao Bộ Ngoại giao sang đàm phán với chính phủ Việt
Nam.
Với
việc BP phải lùi bước trước sức ép của Trung Quốc, ConocoPhillips không còn lựa
chọn nào ngoài việc bước theo đuôi. Họ cũng có lợi ích kinh doanh tại Trung Quốc,
cho dù nhỏ hơn, bao gồm mỏ khí đốt Xijiang phía Nam Hong Kong và nhà máy Peng
Lai ở Vịnh Bột Hải.
Ngửi
mùi chiến thắng, Bắc Kinh mở rộng chiến dịch.
Cũng
trong tháng 6 năm 2007, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phàn nàn với chính phủ Nhật Bản
về các hoạt động của một tổ hợp bao gồm công ty dầu khí Idemitsu, Nippon Oil và
Teikoku Oil vốn lúc đó đang lên kế hoạch thăm dò địa chất trong các Lô 5.1b và
5.1c (cạnh các lô của BP).
Theo
một tường trình của Đại sứ Hoa Kỳ tại Tokyo cũng được để lộ từ Wikileaks, chính
phủ Nhật Bản chọn phương án không làm gắt với Bắc Kinh và vào tháng 7 năm 2007,
tổ hợp Nhật Bản tạm dừng các kế hoạch của họ.
Khoảng
đầu tháng 8 năm 2007, các lãnh đạo công ty Chevron được triệu tập lên Đại sứ
quán Trung Quốc ở thủ đô Washington và bị bảo phải dừng việc khai thác của công
ty này tại Lô 122 ở Việt Nam. Thông điệp này được lập lại một cách còn mạnh mẽ
hơn trong một buổi họp ở Bắc Kinh vào tuần tiếp theo sau đó.
Đòi
hỏi này nhìn qua là thấy quá quắt. Lô 122 nằm ngay sát bờ biển Việt Nam và rõ
ràng trên thềm lục địa nước này.
Tuy
nhiên Chevron vừa mới ký một thỏa thuận lớn với [công ty dầu khí quốc doanh
Trung Quốc] PetroChina để được nhượng quyền cung cấp khí đốt tại tỉnh Tứ Xuyên.
Họ có rất nhiều thứ để mất. Chevron tạm dừng hoạt động tại Lô 122 ngay trong
tháng 8 năm 2007.
Ngày
8 tháng 9 năm 2007, Lãnh sự quán Trung Quốc tại Houston gửi một lá thư cho một
công ty dầu khí khác là Pogo yêu cầu họ dừng hoạt động ở Lô 124, nằm cách Lô
122 khoảng 50km về phía Nam.
Bà
Phó Oánh rõ ràng là rất hài lòng với BP bởi vì vào ngày 31 tháng 8 năm 2007, bà
ta đã có một chuyến thăm đặc biệt tới khu chế biến dầu khí trong bờ tên Wytch
Farm của BP, nằm ở miền nam nước Anh. Tại đây, bà Phó đề xuất rằng ‘cả hai bên
có thể trao đổi hợp tác nhiều hơn nữa’.
Khá
khác lạ cho một chuyến thăm tỉnh lẻ, người tiếp bà Phó là ông John Hughes, giám
đốc phụ trách Châu Á Thái Bình Dương của BP. Ông ta đặc biệt đề cập đến hy vọng
của BP rằng họ sẽ ‘tiến hành hợp tác chiến lược với các công ty dầu khí lớn của
Trung Quốc’.
Bản đồ các lô dầu khí
của Việt Nam. Dự án Cá Rồng Đỏ nằm ở Lô 07/03 màu vàng – Ảnh: BBC
Nhưng
Bắc Kinh vẫn chưa tha cho BP. Bước tiếp theo của Trunq Quốc là dùng công ty này
để thao túng ép chính quyền Việt Nam phải nhường nhịn chủ quyền.
Theo
một nguồn tin nội bộ cao cấp từ BP, chính phủ Trung Quốc đã ‘đề xuất’ rằng BP tạo
điều kiện cho việc thương lượng giữa Tổng công ty Dầu khí Ngoài Khơi Trung Quốc
(CNOOC) và PetroVietnam về việc hợp tác khai thác tại Lô 5.2 và Lô 5.3 bên cạnh.
Động
cơ của CNOOC vừa là lợi nhuận vừa là chính trị: chủ tịch của CNOOC lúc đó là Fu
Chengyu [Phó Thành Ngọc] là người có tham vọng lớn.
Tổng
hành dinh CNOOC tại Bắc Kinh nằm ngay đối diện văn phòng thượng cấp của bà Phó
Oánh, Bộ Ngoại giao, bên kia giao lộ đường Triều Dương Môn.
Trong
các năm 2007 và 2008, phe trục Phó – Phó có vẻ như là hai mặt của cùng một thứ
chính sách.
Đó
thực ra đã là lần thứ hai CNOOC ép BP làm “bà mai” cho họ: đã có một lần trước
vào năm 2003.
Hồi
đó, BP giới thiệu CNOOC cho PetroVietnam rồi tránh sang một bên. PetroVietnam
bèn lịch sự thảo luận chung chung với CNOOC trong vài tháng cho đến khi
PetroVietnam nói rõ với CNOOC rằng CNOOC sẽ được hoan nghênh như là một đối tác
kinh doanh, nhưng không đời nào CNOOC sẽ trở thành bên được quản lý chung các
lô dầu khí vốn là của Việt Nam.
Khi
CNOOC trở lại sân khấu vào năm 2007, ông Phó Thành Ngọc có một mục tiêu chi tiết:
một phần chia chác trong các Lô 5.2 và 5.3.
Giống
như thỏa thuận mà Randall Thompson [lãnh đạo công ty dầu khí Mỹ Crestone] đã từng
đưa ra cho Trung Quốc 15 năm trước đó, thỏa thuận CNOOC muốn phải là một cuộc
dàn xếp dưới vỏ bọc ‘hợp tác khai thác’ (joint development) vốn sẽ gián tiếp
công nhận chủ quyền của Trung Quốc với các khoáng sản trong khu vực tranh chấp.
Lần
này thì BP không được phép trốn tránh cuộc đàm phán. Họ sẽ bị sử dụng trên thực
tế như một cánh tay của chính sách ngoại giao Trung Quốc.
Giới
lãnh đạo BP tại London dưới quyền Tony Hayward có vẻ là đã mù tịt lịch sử và cơ
cấu địa chính trị trong tình huống tại biển Nam Trung Hoa.
BP
tiếp tục công việc trên cơ sở rằng đây sẽ chỉ là một liên doanh (joint venture)
khác, rằng CNOOC có thể bán phần chia của họ bằng một thỏa thuận thương mại, và
rằng các tranh chấp chủ quyền có thể được khoán hết cho các chính phủ xử lý
riêng.
BP
đã không hề nhận ra rằng họ đang nằm giữa một tranh chấp chủ quyền.
BP, người khổng lồ Anh
“ngây thơ”? – Ảnh: curacaochronicle.com
Trong
hơn một năm trời, Gretchen Watkins và các lãnh đạo BP khác bay ra bay vào giữa
Hà Nội và Bắc Kinh để chuyển thông điệp qua lại giữa giới quan chức lãnh đạo
ngành dầu khí của hai nước.
BP
đề nghị sẽ phát triển các dự án trong các lĩnh vực mới hơn, các dự án vốn sẽ
mang lại lợi ích qua lại cho cả hai bên, và họ đã cho rằng một thỏa thuận có thể
đạt được.
BP
thậm chí còn đổi tên chức vụ của Watkins sang thành Tổng giám đốc BP phụ trách
Việt Nam, đồng thời phụ trách Thăm Dò và Sản Xuất tại khu vực Trung Quốc.
Không
lạ gì khi chả có tiến triển nào.
Việt
Nam không buông chủ quyền còn CNOOC thì không hứng thú với một thỏa thuận
thương mại.
Nhưng
phải vài tháng sau thì Hayward và nhóm của ông ta cuối cùng mới hiểu vấn đề.
Lúc đó họ đang quan tâm đến các triển vọng lớn đang được mở ra ở Vịnh Mexico. Với
họ, Đông Nam Á chỉ là một màn phụ.
Watkins
và giám đốc khu vực của BP cố tìm cách thoát ra. Họ biết rằng họ không thể thực
hiện được các trách nhiệm hợp đồng bao gồm việc hoàn thành thăm dò địa chấn trước
khi hết năm 2008.
Đầu
năm 2008, BP và ConocoPhillips lặng lẽ trao lại quyền điều hành (operatorship)
trong Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam. Hai công ty nước ngoài này tiếp tục nắm một
số quyền lợi liên quan đến hai Lô kia, nhưng dàn xếp mới cho phép họ tránh việc
phải gửi tàu thuyền của mình đến các vùng biển tranh chấp.
Ngày
13 tháng 5 năm 2008, Watkins thông báo cho Đại sứ Hoa Kỳ mới được bổ nhiệm là
ông Michael Michalak về các dàn xếp trên. Bà Watkins bảo ông Michalak rằng BP
và ConocoPhillips không có kế hoạch thông báo cho chính phủ Trung Quốc về việc
thay đổi bên chủ điều hành.
Hai
tuần sau đó, chính trị gia quyền lực nhất Việt Nam, Tổng bí thư Đảng Cộng sản
ông Nông Đức Mạnh thăm Bắc Kinh ba ngày.
Đi
cùng ông Mạnh là chủ tịch PetroVietnam. Ông này đã có hội đàm riêng với chủ tịch
Phó Thành Ngọc của CNOOC. Ông Phó sau đó thăm Hà Nội để bàn tiếp với
PetroVietnam nhưng vẫn không có tiến triển.
Tháng
7 năm 2008 có tin tức lộ ra về việc PetroVietnam tiến hành khảo sát. Tuy nhiên
Trung Quốc lúc đó đang quá chú tâm với Olympic Bắc Kinh sắp diễn ra nên đã
không có động thái gì.
Bà
Watkins thì đã chịu hết nổi.
Việc
phát triển mỏ dầu khí bị ngưng trệ trong khi bà ta không có kỹ năng cần thiết
cho việc thương lượng địa chính trị. Sự nghiệp của bà ta tại BP Việt Nam đang
chẳng đi đâu cả. Thế nên tháng 7 năm 2008, Watkins đổi từ một chức vụ tầm trung
trong một công ty khổng lồ sang một chức vụ lớn hơn tại một công ty tương đối
tí hon. Watkins về làm Phó giám đốc Sản xuất Dầu khí Quốc tế của Marathon Oil,
một công ty ít phải giải quyết các tranh chấp chủ quyền hơn.
Người
kế nhiệm Watkins là một người Mỹ khác, Luke Keller, một cựu chủ tịch tại một
công ty con của BP là Atlantic Richfield. Luke đã có nhiều năm kinh nghiệm
tranh cãi với chính quyền bang Texas và với chính quyền nước Azerbaijan.
Đến
lúc này thì BP đã nhận ra rằng trò chơi đã hết và cuối tháng 11 năm 2008 họ
thông báo cho PetroVietnam. BP muốn rút lui. Họ lặng lẽ trao lại phần sở hữu tại
các Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam miễn phí và cũng bỏ qua luôn khoản 200 triệu
đô họ đã đầu tư tại đây.
Quyết
định này buộc ConocoPhillips phải làm điều tương tự vào tháng 12 cùng năm.
Bà
Phó Oánh đã có chiến thắng cuối cùng.
Một giàn khoan dầu
trên biển – Ảnh: ibtimes.com
BP
liệu có thể đã hành xử theo cách khác?
Kinh
nghiệm của một công ty dầu khí khác – công ty dầu khí lớn nhất thế giới – gợi mở
rằng họ có thể.
ExxonMobil
cũng bị nhà chức trách Trung Quốc đe dọa – nhưng họ đã phớt lờ.
Qua
nhiều năm, ExxonMobil không thành công bằng BP trong việc thâm nhập vào thị trường
Trung Quốc. Khoản đầu tư đáng để ý nhất của họ là 22,5% cổ phần trong một dự án
lọc và chế biến hóa dầu ở Phúc Kiến.
Lãnh
sự Hoa Kỳ tại địa phương ghi chú rằng dự án này liên quan đến “các mối quan hệ
và vốn chính trị tiềm năng có thể được trao cho chính quyền Trung Quốc” hơn là
bất cứ đóng góp quan trọng nào của ExxonMobil.
Ngay
cả vị trí dự án này, chỉ nằm ngay gần biển giáp Đài Loan, cũng đã được xem là một
phương tiện giành lợi thế ngoại giao với Hoa Kỳ, trong trường hợp có một khủng
hoảng khác diễn ra giữa Bắc Kinh và Đài Bắc.
ExxonMobil
cũng có bài tẩy của họ. Trung Quốc đang khao khát tăng nguồn cung khí đốt tự
nhiên của họ và ExxonMobil thì đang phát triển một dự án lớn ở phía đông bắc
Trung Quốc, trên hòn đảo Sakhalin thuộc Nga.
Đối
tác Nga của ExxonMobil là Gazprom muốn bán khí đốt trong nội địa trong khi
ExxonMobil lại muốn xuất khẩu. Bắc Kinh không muốn đẩy Exxon đi đến chỗ quá xa
lánh họ.
Cũng
quan trọng, và hoàn toàn tương phản với các công ty dầu khí Anh hay Nhật Bản,
chính là việc ExxonMobil có thể dựa vào chính phủ Mỹ để gây sức ép lên nhà chức
trách Trung Quốc.
Tháng
1 năm 2008, một lãnh đạo công tác thăm dò mới bay sang Việt Nam: Russ Berkoben.
Ông ta đã có 32 năm làm cho ExxonMobil, bao gồm một thời gian làm thăm dò ở
Trung Quốc.
Không
lâu sau đó, ExxonMobil ký một biên bản ghi nhớ (memorandum of understanding) với
PetroVietnam để khai thác Lô 156 và 159.
Hai
lô này là hai lô nằm xa bờ nhất mà Việt Nam từng cho thuê.
Góc
Đông Nam của Lô 159 cách bờ biển Việt Nam đến 500km. Vậy là nằm ngày trong vùng
biển tranh chấp.
ExxonMobil
cũng có các thương lượng thực sự với chính quyền Việt Nam để thuê Lô 117, 118,
và 119 ngoài khơi vùng biển miền Trung.
Ngày
20 tháng 7 năm 2008, phóng viên Greg Torode của tờ báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi
Sáng đóng tại Hong Kong đưa tin rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc tại
Washington đã cảnh báo ExxonMobil rằng triển vọng kinh doanh của họ tại Trung
Hoa đại lục đang gặp rủi ro.
Nguồn
tin của Torode là một quan chức cấp cao trong chính quyền Obama, người lúc đó vừa
được báo tin bởi một lãnh đạo ExxonMobil.
Cuối
tháng 8 năm 2008, Trung Quốc có vẻ nghiêm trọng hơn.
Liên
doanh nhà máy khí đốt tự nhiên hóa lỏng trị giá 1 tỷ đô la tại Hong Kong của
ExxonMobil bị hủy bỏ không báo trước.
Giới
lãnh đạo ExxonMobil nói với giới ngoại giao Mỹ rằng họ không cho rằng Việt Nam
là lý do – liên doanh đó đã bị phản đối mãnh liệt bởi các nhà hoạt động môi trường
địa phương – tuy nhiên có vẻ là Trung Quốc đang hiện thực hóa các lời đe dọa của
họ.
Trớ
trêu là ExxonMobil lại bị chính quyền Việt Nam trừng phạt bởi vì chính quyền Việt
Nam bị chính quyền Trung Quốc trừng phạt.
ExxonMobil
đã thương lượng hơn cả năm trời với PetroVietnam về bốn Lô (129 đến 132, nằm ở
khoảng giữa Lô 156 đến 159 và bờ biển) nhưng tháng 10 năm 2008 PetroVietnam lại
trao hợp đồng cho Gazprom của Nga.
Berkoben
nói với Đại sứ Michalak rằng PetroVietnam sợ là ExxonMobil sẽ không chịu nổi sức
ép từ Bắc Kinh.
Tháng
7 năm 2008, giới ngoại giao Nga thông báo cho giới ngoại giao Mỹ rằng Trung Quốc
không hề gây sức ép với các công ty Nga – chắc rằng nhà chức trách Việt Nam
cũng đã được cho biết điều đó.
Repsol chỉ là “nạn
nhân” mới nhất trong một loạt các “nạn nhân” của Trung Quốc tại biển Đông? – Ảnh:
thestraitstime.com
ExxonMobil
không phải là công ty duy nhất phớt lờ sự ép buộc từ Trung Quốc.
Công
ty năng lượng Ấn Độ ONGC Videsh (từng là đối tác của BP tại Lô 6.1 và cũng là
bên thuê các Lô 127 và 128), công ty KNOC của Hàn Quốc và một số công ty nhỏ
hơn vốn không có lợi ích lớn tại Trung Quốc – như công ty Premier của Anh và
Talisman của Canada – cũng đều phớt lờ Trung Quốc.
Bắc
Kinh tìm các cách khác để gây sức ép.
Tháng
10 năm 2007, Mike Bruce, giám đốc tài chính của Pearl Energy tại Singapore, nhận
được một cú điện thoại từ Đại sứ quán Trung Quốc.
Một
nhà ngoại giao nói với Bruce rằng công ty của ông đang thăm dò trái phép trên
lãnh hải Trung Quốc. Nhà ngoại giao đó cũng mời ông ta lên Đại sứ quán nói chuyện.
Bruce
từ chối và mời ngược lại nhà ngoại giao đến gặp ông ta.
Vài
ngày sau, một phái đoàn có mặt và thông báo cho công ty Pearl Energy rằng họ có
một tàu thăm dò đang làm việc tại Lô 6.94 vốn nằm gần như bao quanh Lô 6.1 của
BP.
Bruce
kể lại rằng, họ ‘đe dọa sẽ gây sức ép với chính quyền Singapore vì Pearl đang nằm
trên sàn chứng khoán Singapore’.
Lúc
này Bruce bèn thông báo rằng Pearl thực ra không còn nằm trên sàn chứng khoán
Singapore nữa vì công ty này đã được mua lại bởi một công ty khác là Aabar
Energy đến từ Abu Dhabi [Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất] từ một năm trước
đó.
Đám
ngoại giao Trung Quốc sa sầm mặt mày. ‘Ồ, thế thì khác rồi,’ người phụ nữ dẫn đầu
đoàn ngoại giao nói.
Sau
đó, công ty Pearl không còn nghe gì từ đoàn Trung Quốc nữa.
Đầu
năm 2009, công ty duy nhất có lợi ích tại Trung Quốc mà vẫn còn khảo sát ngoài
khơi Việt Nam là ExxonMobil.
Ngày
30 tháng 6 năm 2009, ExxonMobil ký kết một hợp đồng chia sẻ sản xuất với
PetroVietnam đối với hai nhóm Lô (Lô 156 đến 159 tại vùng đông nam hoang dã, và
Lô 117, 118, 119 ngoài khơi Đà Nẵng). Hợp đồng này khiến ExxonMobil trở thành
bên thuê nhiều diện tích ngoài khơi của Việt Nam nhất.
Tuần
trước đó, Russ Berkoben đã đến Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội để giải thích rằng lễ
ký kết sẽ được tổ chức ‘lặng lẽ’ để tránh chọc giận Trung Quốc.
Berkoben
thú nhận rằng ông không rõ phản ứng của Trung Quốc sẽ là thế nào, nhưng ông nói
ExxonMobil ‘sẵn sàng nếu Trung Quốc phản ứng’.
Những
nỗ lực của Berkoben được tưởng thưởng vào hơn một năm rưỡi sau. Tháng 10 năm
2011, khi ExxonMobil tìm thấy một trữ lượng khí đốt có tiềm năng lớn tại Lô
118. Việc thăm dò vẫn tiếp tục tại các lô khác.
Một nhà máy ExxonMobil
ở Mỹ – Ảnh: washingtonpost.com
Ngoại
trừ ExxonMobil, tất cả các công ty dầu khí khác đều đã phải chọn lựa giữa việc
hoạt động ở Trung Quốc hay là hoạt động ở vùng biển đang bị các nước tranh chấp
này.
ConocoPhillips
đã bỏ Lô 5.2 và 5.3 vào tháng 12 năm 2008 nhưng vẫn còn cổ phần trong hai lô
khác nằm sát bờ biển Việt Nam, cách xa khỏi mọi vấn đề với Trung Quốc. Tháng 2
năm 2012, ConocoPhillips hoàn toàn rời bỏ Việt Nam để tập trung vào các dự án
có lời hơn.
Chevron
vẫn giữ 20% cổ phần tại Lô 122 nhưng đã dừng mọi hoạt động tại đó cho đến khi họ
bán hết cổ phần vào đầu năm 2013.
Điều
đó có vẻ đã làm hài lòng Bắc Kinh vì vào năm 2010, Chevron đã được mua cổ phần
trong ba mỏ dầu tại phần phía bắc của biển Nam Trung Hoa, ngoài khơi đảo Hải
Nam.
Tại
thời điểm viết sách này, giữa năm 2014, có tin rằng Chevron đang cố gắng bán hết
các cổ phần tại Việt Nam – hai lô ngoài khơi bờ biển phía Tây Nam, gần biên giới
biển với Indonesia và Malaysia.
BP
vẫn kinh doanh tại Việt Nam với hoạt động chuyển đổi khí đốt sang điện năng của
họ từ Lô 6.1. Nhưng đến tháng 7 năm 2010, mỏ vàng Vịnh Mexico của Tony Hayward
biến thành thảm họa.
BP
cần gấp 30 tỷ đô la để trả bồi thường sau vụ tràn dầu và nổ giàn khoan
Deepwater Horizon.
Ngày
18 tháng 10 năm 2010, BP bán hết cổ phần tại Việt Nam và Venezuela cho liên
doanh với Nga của họ là TNK-BP để lấy về 1.8 tỷ đô la.
Chắc
rằng BP đã cảm thấy rằng người Nga có thể chịu nổi nhiệt.
BP
có một nhiệm vụ khác cho tài năng của Luke Keller. Ông ta được bổ nhiệm Phó
giám đốc phụ trách Tổ Chức Phục Hồi Vùng Vịnh của BP – giúp giải quyết đống hỗn
độn ở Vịnh Mexico.
Vài
tuần trước khi bán tống bán tháo, vào ngày 21 tháng 9 năm 2010, Tony Hayward đã
gặp lại bà Phó Oánh. Sau những thành công của mình tại London, bà ta đã được bổ
nhiệm thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Hayward
đã dắt theo người sẽ kế nhiệm ông ta là Bob Dudley. Đó là một trong những công
tác cuối cùng cho BP của Hayward. Chín ngày sau đó, ông ta không còn là Tổng
giám đốc BP nữa…”
Bìa cuốn sách “Biển
Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á” (The South China Sea: The
Struggle for Power in Asia) – Ảnh: Amazon.com
Tìm
đọc thêm:
No comments:
Post a Comment