Ngô Nhân Dụng
August 29, 2017
Người Mỹ thường hay hãnh diện nghĩ rằng quốc
gia họ được lập lên trên những căn bản đạo lý, có thể làm gương cho cả loài người.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đề cao quyền bình đẳng giữa con người, ai cũng phải được
sống tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Sau biến cố chết người tại Charlottesville (Virginia),
các đại biểu Quốc Hội Cộng Hòa cũng như Dân Chủ đã nói rõ không thể chấp nhận
phong trào kỳ thị chủng tộc của một nhóm nhỏ người da trắng. Ngoại Trưởng Rex
Tillerson cũng mới nói trên ti vi rằng những lời so sánh lúc đầu của Tổng Thống
Donald Trump chỉ là “ý khiến riêng của ông.” Ông Tillerson nhấn mạnh: Kỳ thị chủng
tộc không phải là điều dân tộc Mỹ coi là giá trị đáng nêu cao. Trong hai lần
phát biểu, ông Trump có ý coi đám Tân Quốc Xã, Da Trắng Ưu Việt, và KKK ngang
hàng với những người biểu tình phản đối họ. Giữa hai lần đó, Tổng Thống Trump
có đọc một bản tuyên cáo lên án các nhóm kỳ thị này.
Nhưng một vị tổng thống Mỹ, ngoài trách nhiệm
quản trị quốc gia, xã hội, có bổn phận phải nêu cao một lý tưởng nào cho dân
chúng noi theo hay không?
Trong lịch sử Mỹ, các vị tổng thống đều tự nhận
trách nhiệm đề cao các quy tắc đạo lý làm gương cho cả nước. Trước mặt thế giới,
họ đóng vai đại biểu cho các giá trị dân Mỹ tôn thờ.
Tổng Thống Ronald Reagan nhiều lần dùng hình ảnh
một “thị trấn sáng rực trên ngọn đồi” (shining city on a hill) để mô tả nước Mỹ
trên trái đất. Trong một bài diễn văn năm 1989, ông Reagan xác định nước Mỹ “vẫn
là ngọn hải đăng, là khối nam châm thu hút tất cả những người khao khát tự do…”
Giống như năm 1965, Phạm Duy dám mơ ước: “Việt Nam trên đường tương lai, lửa
thiêng soi toàn thế giới!”
Khi nước Mỹ tham dự các cuộc đại chiến thế giới
trong thế kỷ 20, các tổng thống Wilson và Franklin D. Roosevelt đều nêu lý
do nước Mỹ muốn bảo vệ các quyền tự do, bình đẳng và phẩm giá con người. Vì những
lý tưởng đó mà quân Mỹ tham chiến, giải phóng các dân tộc mất tự do.
Abraham Lincoln được coi là một vị tổng thống
bao dung. Sau cuộc nội chiến 1861-1865 với rất nhiều đau thương và thù hận, ông
kêu gọi dân Mỹ hãy băng bó vết thương và “không thù ghét một ai; nhân từ với tất
cả; và kiên quyết bảo vệ lẽ phải.”
Cuộc cách mạng tin học ngày nay khiến ai cũng
có dịp tiếp cận với tất cả mọi người, biết mọi biến cố, mọi thông tin, mọi quan
điểm từ khắp thế giới. Có lẽ dân chúng nước nào cũng thấy cần một vị tổng thống
đứng ra làm “ngọn hải đăng” soi sáng các giá trị đạo đức thâm thiết của họ.
Gần đây nhất, Tổng Thống George W.
Bush, nói chuyện ở Quốc Hội sau vụ tàn sát 11 Tháng Chín năm 2001, đã cẩn
thận nhấn mạnh rằng chiến dịch của ông chống những nhóm khủng bố cực đoan theo
đạo Hồi (Islam) không có nghĩa rằng chính phủ ông, và nước Mỹ, chống tôn giáo của
họ. Ông Bush gửi một thông điệp chính thức, tới thế giới Hồi Giáo và dân chúng
Mỹ: “Chúng tôi kính trọng niềm tin của
quý vị. Đó là một tín ngưỡng được bao nhiêu triệu người Mỹ thực hành, cũng như
trong bao nhiêu quốc gia là bạn của nước Mỹ. Niềm tin của quý vị dạy điều thiện
và hòa bình; những kẻ nhân danh Thượng Đế Allah đi phạm điều ác, chính họ đang
báng bổ Đấng Allah.”
Những vị tổng thống Mỹ, trước thời Tổng Thống
Donald Trump, đều tìm cơ hội xiển dương đức bao dung trong xã hội, không phân
biệt tôn giáo, không kỳ thị chủng tộc, phải tôn trọng quyền bình đẳng giữa các
mầu da, các giai cấp, giữa người nam và người nữ, vân vân.
Ông Donald Trump là vị tổng thống đầu tiên tỏ
ra không quan tâm đến vai trò đó. Ông có vẻ chú tâm đến vận động tranh cử năm
2020 hơn là đóng vai trò lãnh đạo tinh thần cho dân chúng.
Khi biết những người biểu tình ở
Charlottesville trưng cờ Quốc Xã, đả kích người Do Thái, mang súng và những biểu
ngữ đề cao chủng tộc da trắng, ông Trump vẫn coi như họ ngang hàng với những
người phản đối họ, không có lỗi nào nặng hơn. Ngay lập tức, thủ lãnh của các
nhóm Da Trắng Độc Tôn và KKK đã thông báo cho đàn em biết: Ông Trump không chống
chúng ta! Họ đã được khuyến khích, tiếp tục con đường họ đang theo. Trước khi đến
Charlottesville, lãnh tụ đám Da Trắng Độc Tôn đã từng tuyên bố rằng họ đang làm
theo ý muốn của Tổng Thống Trump. Ngày hôm sau, ông Trump đọc một bản tuyên bố
chống các chủ trương da trắng độc tôn, nhưng sang một ngày sau đó, ông nhắc lại
tất cả những điều ông nói lúc đầu! Ngoài các nhà chính trị, giới lãnh đạo kinh
doanh, chỉ huy bốn binh chủng trong quân đội Mỹ đều tỏ thái độ không bằng lòng.
Nhưng còn dân chúng Mỹ thì sao? Họ có sống
như các quy tắc bao dung các chủng tộc và tôn giáo như các vị tổng thống trước
đây vẫn đề cao hay không?
So sánh các cuộc nghiên cứu dư luận 50 năm gần
đây cho ta thấy rất đáng mừng: Dân Mỹ ngày càng tỏ ra có thái độ bao dung rộng
lượng đối với những người khác mình, khác trên rất nhiều phương diện, không phải
chỉ khác màu da.
Thí dụ, người ta hay đặt câu hỏi: ông/bà nghĩ
sao về hôn nhân giữa những người khác chủng tộc? (Interracial marriage, người
nghe nghĩ tới mầu da đen hoặc trắng). Trước đây gần 50 năm, cuộc nghiên cứu của
viện Gallup cho thấy 73 phần trăm dân Mỹ không chấp nhận người da trắng và da
đen lấy nhau, rất nhiều người da đen cũng trong số đó. Đó là năm 1968, chỉ có
20% dân Mỹ coi hôn nhân dị chủng là bình thường.
Nhưng tới năm 2013, tình trạng đã đảo ngược:
87% dân Mỹ coi hôn nhân dị chủng là bình thường, chỉ có 11% vẫn chống.
Theo viện nghiên cứu Pew Research Center thì
hiện nay có 7% người Mỹ xác nhận họ lai nhiều chủng tộc khác nhau; tỷ lệ trong
giới trẻ cao hơn. Phần lớn dân da mầu không cảm thấy màu da gây trở ngại khi cần
thăng tiến trong xã hội. Ba phần tư cho biết mầu da không ảnh hưởng gì tới cuộc
sống hàng ngày và công việc họ làm, trong khi 20% còn nghĩ đó là một lợi thế!
Bên cạnh vấn đề chủng tộc, số người Mỹ chấp
nhận những cách sống khác mình cũng gia tăng, bao dung cả những hành vi trái
ngược với đạo lý và niềm tin của mình. Thái độ của đa số dân Mỹ đã thay đổi nhiều
trong các vấn đề như ngừa thai, phá thai, hôn nhân đồng tính theo chiều hướng ngày
một rộng lượng hơn.
Những thái độ bao dung đó có khiến xã hội suy
đồi hay không?
Song song với những quan niệm sống thay đổi,
nước Mỹ cũng hiền hòa hơn.
Hiện nay, tỷ lệ tội phạm và vợ chồng ly dị
trong nước Mỹ đã giảm xuống bằng những năm 1970, sau mấy thập niên gia tăng.
Năm 2014, tỷ số phụ nữ phá thai đã xuống mức thấp nhất kể từ sau năm 1973, khi
Tối Cao Pháp Viện, đi ngược với ý kiến những người Mỹ muốn bảo vệ niềm tin tôn
giáo, đã phán rằng quyền phá thai không trái với Hiến Pháp Mỹ.
Trong hơn một thập niên đầu thế kỷ 21, người
ta thấy nhiều hiện tượng xấu đã đi xuống: nước Mỹ giảm bớt bạo lực, người Mỹ bớt
phá thai, bớt ly dị, và số con hoang, những trẻ sinh ngoài hôn nhân, cũng giảm
bớt.
Xã hội Mỹ cải thiện về mặt đạo đức, thấy rõ
trong các chỉ số đời sống văn hóa, trong Index of Leading Cultural Indicators
được nêu trên đây. Qua các cuộc phỏng vấn, thấy đa số người Mỹ cũng bao dung, rộng
lượng hơn đối với người khác.
Hai hiện tượng trên không thể nói cái nào là
nhân, cái nào là quả. Cả hai có thể ảnh hưởng hỗ tương lẫn nhau. Cả hai đều là
hậu quả của những làn sóng thông tin mở rộng, thông tin đa dạng phơi bầy nhiều
sự kiện cũng như quan điểm đối nghịch. Mạng thông tin nối kết người với người.
Thông tin cũng giúp nền giáo dục không ngừng cải thiện. Nhờ những tiến bộ đó,
tiếng nói của Thiện đang thắng Ác; xóa bỏ dần những thói quen đố kỵ, thù hận,
sân si.
No comments:
Post a Comment