September 1, 2017
https://www.nguoi-viet.com/dien-dan/s-t-t-d-tuong-nang-tien-son-nam-va-cach-mang-thang-tam-o-u-minh/
Mấy năm trước, sau khi ghé thăm Giáo Sư Lý
Chánh Trung, Giáo Sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng
nghiệp cũ:
“…sau
1975 …có mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung.
Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 1975, ông viết như thể một người nhập cuộc,
kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng
nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”
Tôi có ngồi học với Giáo Sư Lý Chánh Trung
đâu chừng cỡ… nửa giờ, ở trường Văn Khoa Ðà Lạt. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.
Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về chuyện viết lách của một người thầy
học cũ.
Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến
tôi nhớ đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may mắn hiếm hoi
của miền Nam (trong “con số đếm chưa hết một bàn tay”) vẫn được phép cầm viết,
sau 1975, và là một trong những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.
Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn
Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Tác giả kể lại
chuyện một người dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền nên
nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn đọc chơi cho nó… đã:
-Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có
gần hay xa vậy thầy?
Thầy xã trưởng đáp:
-Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Ðể tôi
ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó lên công sở…
Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời”
giựt mình:
-Tôi là phái viên, đâu có quyền
hạn đó đối với quí vị độc giả thân mến gần xa.
Thầy xã hỏi:
-Phái viên là gì vậy thầy?
-Là người thay mặt cho tờ báo
đi cổ động và thu tiền.”
[(Sơn Nam. “Tình Nghĩa Giáo
Khoa Thư.” Hương Rừng Cà Mau, tr.99) (*)]
Nhân vật chính trong truyện,
ông Trần Văn Có, theo như lời dân cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề
giăng câu, nuôi heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: “Anh ta công kích tờ
Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện
Hít-le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối
nói lảng qua chuyện Tầu…”
Nghe nói vậy nhưng không phải vậy.
Khi phái viên báo Chim Trời giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của
ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô cùng) thắm thiết:
“Buổi cơm chiều ngon lành làm
sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu… Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một
đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đi. Thếp
đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên
cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn
chòi nhỏ hẹp.
Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn
ba phía rồi mời:
-Thầy Hai vô trong này ngồi nói
chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong
thếp đèn dầu cá đó.
Ngượng nghịu, thầy phái viên
nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:
-Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi
sanh bịnh chết.
Tư Có đáp:
-Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me
nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm
thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bịnh hoạn,
thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.
Thầy phái viên trố mắt:
-Vậy à? Còn mấy làng khác?
-Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng,
Vân Khánh Ðông… không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi…
-Hèn chi miệt này chỉ một mình
anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi. Báo có thích hợp không anh Tư?
-Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm
phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ông làm thầy
giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại
tôi. Ðó là sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, thầy còn nhớ không?
Thầy phái viên cười:
-Nhớ chớ. Làm sao mà quên được!
Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê,” tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi
đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi
làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.
Tư Có nói:
-Chắc là thầy muốn nói bài “chốn
quê hương đẹp hơn cả” chớ gì?
Rồi chú đọc một hơi:
-Một người đi du lịch đã nhiều
nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một
người bạn hỏi: Ông đi du sơn du thủy?
-Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ
quá. Người du lịch mới trả lời: Ở chốn quê hương… từ cái bụi tre ở xó vườn cho
đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình
chứa chan… Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người
khăn đống áo dài.
-Thì hình nào cũng khăn đống áo
dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: Ai bảo chăn trâu là khổ…
Không, chăn trâu sướng lắm chứ.
Thầy phái viên phụ họa theo như
cùng hợp xướng:
-Ðầu đội nón mê như lọng che,
tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim
hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ.
Không ai bảo ai, hai người lại
nằm xuống lim dim.
Giọng Tư Có nói nhỏ:
-Ngủ chưa, thầy phái viên?
-Ngủ chưa anh Tư?
-Chưa!
-Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ
sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.
Im lặng một hồi lâu, rất lâu,
Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:
-Biết lấy gì làm sở phí cho thầy.
Thầy nói thiệt tình nghe coi. Chắc thầy tới đây thâu tiền.
-Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời
với nhau.
-Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi
cá lóc, rùa, mật ong… nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà
báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao
quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.
-Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ
tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư Tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi
anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc
nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một
số báo, hoài hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động…” (sđd
111-116)
Tôi đọc truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” khi
còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn
tâm nguyện rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức để dựng xây
những phần đất quê hương (bị lãng quên) như vùng U Minh Hạ.
Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống
an bình như mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng triệu kẻ
đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu cầu một cuộc sống khả kham hơn – nơi
đất lạ quê người.
Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ
đi như thế. Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời xa, tình cờ
đọc được bài báo (“Tiếng Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ”) của phóng viên Hoàng Trí Dũng
mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ:
“Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ÐBSCL, nhưng
có lẽ chưa lần nào tôi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng
quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang-Cà Mau, cách không xa trung tâm hai
thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất
vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện,
đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…”
“Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa
phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Ðó là chuyện thật ở ngay
một góc lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.”
“Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ
chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có
trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt
cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện.”
“Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt – một lão nông có uy tín trong
vùng – vào chuyện: ‘Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế hệ với hơn 30 người
sinh ra và lớn lên tại khu rừng này, nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được
tấm hộ khẩu, cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn đỡ chứ tội
nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra đời trong ruột rừng này hiện tại đều
thất học như ông cha nó.’”
Chú Ba Vinh thì kêu: “Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ lắm,
không thua gì thời kỳ Pháp thuộc.”
Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – ngó bộ – còn
hơi ít nên không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời Pháp thuộc.
Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người
đặt mua dài hạn báo Chim Trời ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám) bàn chuyện
quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa.
Những chuyện “tầm ruồng” như thế, xem ra, có
vẻ như một giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ – bây giờ.
Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện
có bữa nhậu lai rai mấy con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng
chung với họ một bữa cơm chiều (“ngon làm sao”) như đặc phái viên của báo Chim
Trời – hồi đó. Chuyện người ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu “Tình Nghĩa
Giáo Khoa Thư” (ngó bộ) cũng miễn có luôn.
Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường
thuật nhà báo Hoàng Trí Dũng: “30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn
là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không
trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất.” Có chăng chỉ là tiếng
kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận, vì bị cướp bóc trắng
trợn mà thôi.
Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không
còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ
nơi sinh trưởng của ông. Trên diễn đàn Talawas, tôi cũng nghe nhà văn Lê Phú Khải
kể chuyện này:
“Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho Ðài Tiếng
Nói Việt Nam để kỷ niệm Cách Mạng Tháng Tám ở Nam Bộ. Mấy ngày sau, cũng tại
quán cà phê ở Gò Vấp, ông đưa tôi bài ‘Nhớ ngày Cách Mạng Tháng Tám ở U Minh,’
đánh máy bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong tôi thấy
‘tiếc’ quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió bay đi… Tôi bèn gửi bài đó cho
báo Cà Mau. Khi bài báo đó được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc,
cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này đều kinh ngạc về trí nhớ
của Sơn Nam. Bài báo đó là một tư liệu lịch sử sống động về Cách Mạng Tháng Tám
ở U Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư gửi về tòa soạn
tới tấp. Xin trích đăng lại đoạn cuối của bài báo đó:
“Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng
bay phấp phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày lịch sử trọng đại.
Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với
các sãi áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung niên ‘quần
bao áo bố’ cõng con trên vai để nó trông lên khán đài. Tiếng loa phát ra vang
vang, báo tin đại diện của tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ
tập lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên đồng bào yên
tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời
chuyển mưa. Ðồng bào vẫn đứng chịu mưa tại chỗ.”
Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng
đến nhận xét của Giáo Sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ của mình:
“Trước 1975, ông viết như thể một người nhập
cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm
lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ
tay.”
Sơn Nam qua đời vào ngày 13 Tháng Tám, 2008
nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.
————
(*) Sách được in lại (và in “lậu”) tại Hoa Kỳ,
tuyệt nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm tái bản.
No comments:
Post a Comment