March
31, 2017
“I
would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam.”
Ralanpee,
một người Thượng tị nạn tại Cambodia – BBC
*
Hổm
rầy, không biết ăn nhằm cái giống gì mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao (sao) nói
năng ví von và điệu đàng hết sức:
-
Bí Thư Đinh La Thăng: “Đừng để anh Hải thành ngôi sao cô đơn.”
-
Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Tây Nguyên như một cô gái đẹp đang ngủ quên trước
thời cuộc.”
Vụ
anh Hải/anh Thăng, với trăng sao và hè phố, nghe đã quá mệt rồi nên khỏi bàn
thêm, nhưng chuyện Tây Nguyên (nơi tôi sinh trưởng) thì buộc phải có đôi lời với
ông thủ tướng.
Kính
thưa ông,
Kể
từ khi mà người Kinh đặt chân đến Tây Nguyên thì chúng tôi còn có bao giờ được
ngủ yên nữa đâu, nói chi tới chuyện “ngủ quên” cho nó thêm phiền. Hôm 11 Tháng
Ba vừa qua, tại Hội Nghị Xúc Tiến Đầu Tư Vùng Tây Nguyên, vừa nghe ông tuyên bố
“tái khẳng định quyết tâm của chính phủ trong việc đầu tư ở các tỉnh Tây
Nguyên” là hết thẩy bản làng – bất kể nam, phụ, lão, ấu – đều nhẩy dựng lên hết
ráo vì … kinh hoảng!
Cách
đây chưa lâu, vị thủ tướng tiền nhiệm (Nguyễn Tấn Dũng) cũng đã từng lớn tiếng
tuyên bố: “Khai thác bauxite tại Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà
nước.”
Hậu
quả ra sao – nếu ông chưa rõ – xin đọc dòng chữ sau đây, từ báo Công An Nhân
Dân, số ra ngày 11 Tháng Ba:
“Tổ
hợp bauxite – nhôm Lâm Đồng lỗ hơn 3,700 tỷ đồng sau ba năm hoạt động.”
Cùng
ngày, VNExpress còn ái ngại cho biết thêm:
“Thời
gian vận hành ba năm qua, tổ hợp bô xít – nhôm Lâm Đồng đã nảy sinh một số sự cố,
gây ảnh hưởng tới môi trường như vỡ đường ống dẫn nước dư từ hồ bùn đỏ về nhà
máy tuyển quặng, hay sự cố rò rỉ ống khói khiến dư luận hoang mang.”
Tụi
tui sợ thấy bà luôn, chớ đâu phải chỉ “hoang mang” thôi – mấy cha! Bùn đỏ chính
là một loại bom, bom kiềm, theo như lời giải thích của một chuyên gia có thẩm
quyền – kỹ sư Nguyễn Sáng:
“Đối với mỏ bô xít
Tây Nguyên hàm lượng ôxít nhôm trung bình là 50%, như vậy cứ 1 tấn nhôm được sản
xuất thì sinh ra 1 tấn bùn đỏ. Hai dự án bô xít là Nhân Cơ và Tân Rai, mỗi dự
án có hai hồ chứa bùn đỏ mỗi hồ có dung tích 1 triệu tấn, trong đó công suất của
Tân Rai 650,000 tấn/năm và Nhân Cơ lên 600,000 tấn/năm. Như vậy, chỉ ba năm là
các hồ chứa bùn đỏ sẽ đầy, và để càng lâu thì quả bom sẽ càng lớn.”
So
với “sự cố môi trường vùng biển Formosa” thì quả bom bùn đỏ khổng lồ, ở Tây
Nguyên, đáng sợ hơn nhiều. Người dưới xuôi mà còn phập phồng thì dân miền núi
làm sao mà “ngủ quên” cho được. Sở dĩ chúng tôi không đi biểu tình (như người
dân vùng biển) vì chưa lại sức, sau hai đợt đàn áp dã man vào năm 2001 và 2004.
Nếu
rảnh, xin ông coi qua tập tường trình, dài 200 trang (Repression of
Montagnards: Conflicts over Land and Religion in Vietnam’s Central Highlands)
do Human Rights Watch xuất bản. Trong trường hợp ông không đọc tiếng Anh/tiếng
U thì có thể xem qua Wikipedia (tiếng Việt, ma dze in Viet Nam, về cuộc biến động
hồi năm 2004) cũng được:
“Biểu tình ở Tây
Nguyên 2004 là vụ gây rối quy mô lớn của người Thượng xảy ra vào ngày 10 và 11
Tháng Tư, 2004 tại Tây Nguyên nhằm đòi lập nhà nước Đề Ga tự trị, đòi đất, đòi
tự do tôn giáo do Quỹ Người Thượng của Ksor Kok kích động, với tổng cộng gần
10,000 người tham gia, đồng loạt ở các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, và Đắk Nông.”
Wikipedia
(giọng điệu Hà Nội, như vừa trích dẫn) cũng như tất cả các cơ quan truyền thông
của nhà nước lúc nào cũng lu loa rằng dân Tây Nguyên bị “kích động,” và “có sự
xúi giục từ nước ngoài.” Cùng với cái thói hay vu vạ, quí ông còn có cái tật (rất)
lớn là luôn chối từ nhìn vào thực tại (bi thương) của những người dân ở vùng đất
bất hạnh này.
Dưới
miền xuôi, may thay, vẫn còn có những người Kinh công tâm và sáng suốt. Xin
ông, đôi phút, lắng nghe những nhận định khách quan của nhà văn Nguyên Ngọc:
Từ sau năm 1975, đối
với Tây Nguyên, chúng ta có hai chủ trương chiến lược:
-Xây dựng Tây Nguyên
thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng, tương xứng với vị trí chiến
lược của vùng cao nguyên quan trọng này.
-Xây dựng Tây Nguyên
thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.
Để thực hiện chủ
trương chiến lược đó, đã :
-Tăng cường lực lượng
lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc đại di dân chưa từng
có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên
Tây Nguyên. Theo kế hoạch ban đầu, dự kiến sẽ đưa lên Tây Nguyên 5 triệu dân. Kế
hoạch này cũng đồng thời nhằm giải tỏa áp lực dân số cho hai vùng đồng bằng nêu
trên.
-Tổ chức toàn bộ Tây
Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn: Trong 10 năm đầu là các binh đoàn làm kinh
tế, gồm ba binh đoàn 331, 332, 333 bao trùm gần toàn bộ Tây Nguyên. Mười năm
sau, quân đội giao lại cho dân sự, các binh đoàn làm kinh tế chuyển thành Liên
Hiệp Xí Nghiệp Nông, Lâm, Công Nghiệp (LHXNNLCN), cũng bao trùm gần hết Tây
Nguyên. Sau 10 năm nữa, nhận thấy mô hình quản lý này không hiệu quả, đã giải
tán các LHXNNLCN, tổ chức lại thành các nông trường, lâm trường thuộc tỉnh hoặc
thuộc trung ương.
Toàn bộ đất và rừng ở
Tây Nguyên được quốc hữu hóa, được lấy giao cho các binh đoàn làm kinh tế, các
LHXNNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ đồng bằng lên.
Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.
Những việc làm của
chúng ta ở Tây Nguyên từ sau 1975 như đã trình bày trên đã đưa đến những hệ quả:
1-Dân số Tây Nguyên
tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn. Đầu thế kỷ 20, các dân tộc bản địa chiếm
95% dân số. Đến năm 1975, tỉ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn
15-20% trên toàn địa bàn.
2-Sự tan vỡ của làng
Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng
làng đối với đất và rừng nghiễm nhiên bị xóa bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc
hữu hóa. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh
tế của làng; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây
Nguyên, tất yếu tan vỡ.
3-Môi trường bị tàn
phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh
núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch,
hậu quả về nhiều mặt không thể lường.
4-Người bản địa bị mất
đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người
dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất
đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn
định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
5-Văn hóa Tây Nguyên
bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột
ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính
quê hương ngàn đời của mình tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hóa.
Đó
là kết luận của “già làng” Nguyên Ngọc, hồi năm 2006. Hơn 10 năm đã trôi qua,
bây giờ chúng tôi không còn chỗ để mà “lang thang trên chính quê hương ngàn đời
của mình” nữa. Đất bị cướp trắng cả rồi. Cho dù quả bom đỏ bô xít không nổ
chăng nữa thì chúng tôi cũng chết dần, chết mòn, và sẽ chết hết (trong tương
lai gần) nếu chế độ hiện hành không tàn lụi sớm.
Kính
thưa ông,
Tây
Nguyên có được ngủ yên bao giờ mà nói “ngủ quên.” Tôi đoán chừng là ông đang ngủ
gật nên có biết “trời trăng mây nước” gì đâu, chúng đưa cho cái gì thì cầm giấy
đọc y chang như vậy thôi. Từ trên xuống dưới, toàn là một lũ dốt nhưng lại hay
nói chữ!
K’
Tien
---------------------------
No comments:
Post a Comment