23/04/2017
Chiều hôm ngày 30 tháng 3, chúng tôi, 56 người, gặp
nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là Hatyai, của nước Thái
Lan. Trong 56 người, chỉ có 4 người: vợ chồng tôi, Trùng Dương, anh Michael ở
Texas làm cho đài Truyền Hình Saigon-Houston không phải thuyền nhân. Số đông
thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc Châu và rất nhiều người đã từng
đi Songkla và Bidong hai, ba lần. Anh chị Dương Phục và Vũ Thanh Thủy cũng là
thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến đảo Kra. Cô Ngọc
Ân, phóng viên của đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn Hồng của đài
VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.
Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục , Cha Nguyễn Hùng đến
từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác Sĩ Y Khoa) đến từ
Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến
từ Úc.
Trong nhóm còn một Bác Sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn
đến từ California.
Trại
Tỵ Nạn Songkla
Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở
lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng
lái xe.
Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất
nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống
hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng
chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó
trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần
vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.
Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước
mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.
·
Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.
·
Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ
đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng,
nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư
ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa.
Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà) .
Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn
sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã
như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa
cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc,
những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.
Tác giả và Miếu Thờ ở Songkhla.
Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại
cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.
Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên
Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết , kẻ lưu
vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.
Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió,
tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang
đập vào bờ:
Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)
Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị làm phát
thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra riêng một chỗ
thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.
Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao
nhiêu xác đã trôi giạt
vào bãi bờ này?
Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.
Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ
ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.
Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp
nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi
người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại ngóng
trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.
Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.
Tha
Sala và 11 Cô Gái Việt
Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng:
·
Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một
Cô.
Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần,
bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này,
được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót
thương, rùng mình, uất hận.
Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên
Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt
thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.
Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống
trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này. Mỗi ngày bà mang ra miếu
một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.
Đây là câu chuyện của bà: Khi gia đình bà tới ở trên
bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc
thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển bị đắm, sóng
đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác
giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này. Gia đình bà
dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái. Chiếc thuyền
cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và bão tố, ngôi đền
chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn
cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.
Người Việt bị người Thái giết, thì cũng chính người
Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của đất trời
không?
Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần
bờ biển phía lên đảo Koh Kra.
Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong chùa còn
có một ngôi trường Tiểu Học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong chùa.
Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới chân những
tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương tâm của mười
một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi
tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!
Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.
Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi
thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở
đâu? Phật ở đâu?
Lên
thuyền ra đảo Koh Kra
Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng
chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng
tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.
Tại bãi biển.
Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân
trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền
tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.
·
Sao đi sớm thế?
·
Giờ này biển êm, không có sóng
·
Chạy bao lâu thì tới?
·
Khoảng hơn 3 tiếng
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Có tiếng nói khẽ cất lên:
·
Hồi đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế
này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn đón.
·
Nhưng hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất
sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo
phao mặc như thế này.
Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển
bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt
nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ
của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau
trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.
Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra
thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không
thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt
giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200 người
đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành hạ
thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình thường.
Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này,
con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu? Bao nhiêu phụ nữ đã bị
hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh
trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.
Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác
nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có
còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi như
cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một
kiếp.
Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm
không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến
một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự
nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh
đã đặt vào họ.
Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc
hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói,
khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra,
người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.
Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những
vết thương này.
Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những
người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng, lãng
quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn
và thể xác ấy.
Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong
hồi ký cả ngàn trang “Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển” của anh chị một phần nào
những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái Lan ngày
nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ của một
quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra, nhìn lại.
Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể,
căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá . Chúa thì
phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã được
anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng cá
nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia. Sửa
soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.
Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc
ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (Được anh trưởng nhóm
đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh một bức tường
tượng trưng cho khu nghĩa trang.
Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một
tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một
số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.
Công việc dựng tượng mới làm được một phần.
Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì có hai
chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có vũ trang
nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi ra để
trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên nam,
bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo)
xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất
Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân
Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên
ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các
nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.
Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên trong lòng
những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có thông đồng
với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện mang thông
hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.
Buổi chiều, cơn mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới
những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng
tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến hành được, cả những tấm ghi dòng
tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại.
Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự tính đã không thành.
Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là
những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng, quần áo,
dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới những
giọt mưa.
Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến
nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng
nghe.
Có hay không! Những hồn ma bóng quế đang rủ nhau
cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình?
Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng
tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng trên đầu,
buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên phải lều,
rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên
trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột
từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.
Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ
kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh,
phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh
trên đảo.
Lễ Cầu Siêu Trên Đảo Koh Kra.
Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển,
mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được
biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày
tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.
Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị, bắt đầu
làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn,
sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm Cha
Hương chia nhau dâng lời nguyện.
Vừa xong hai phần về Phật Giáo, tiếng các Cha bên
Công Giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.
·
Xin chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo
bão sẽ tới lúc 3 giờ.
Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn
hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công Giáo vẫn ở lại.
Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:
Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn phương
Chúng tôi những người sống sót trong cuộc
chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ.
Xin những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt
lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.
Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên
Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là
những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.
Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ
Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.
Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, Cha đọc
hết bốn trang bài “Văn Tế Muộn Màng.”
Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người trên những
mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những
dòng kinh nguyện.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)
Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả
những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy
mặn như những giọt lệ.
Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại
đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần
áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào những đám
mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải
mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi cũng đang
thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo như chìm từ
từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên trên tiếng
sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch dài và
đen chia đôi.
Bidong
và Những Ngôi Mộ Tập Thể Ở Mã Lai
Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua
những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai
thì đã trời chiều.
Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn
chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt.
Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của họ. Hiếm
hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để
lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông
tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện
năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.
Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt
Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm kể lại: nạn
hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại kiếm những
cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ
nữ và giết người ngay trước mặt mình.
Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào
bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền
nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến
trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được.
Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó
có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm
thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không
cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ
mà không vào được bến.
Viếng Ngôi Mộ Tập Thể Đầu Tiên Ở Kelanta.
Mã cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của
thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.
Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock
thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.
Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ
tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam,
tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa.
Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “Thuyền Nhân” chỉ nhìn “HìnhThuyền Nhân”, cái
thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da. Phải tới
đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong
một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một cội nguồn
dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi! Vì
đâu, vì ai , vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này! Cá nhân
mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?
Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa
có nhìn xuống chúng sinh không?
Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với tôi: Nghiệp lực
làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục
xảy ra.
Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không
xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một
cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận
thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những
ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ ông
Alcoh Wong Yahao (Sẽ nói đến vị ân nhân này sau)
“Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt nam nữ,
tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp
xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế
là thành một ngôi mộ lớn.
Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người,
cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ
Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày
4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.
Mộ Tổng Cộng 128 Người.
Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin
các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ
nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung
quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.
Mắt Nào Không Lệ Chảy.
Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến
nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.
Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những
nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một
thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước
qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và
các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến
chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.
·
Tại sao mẹ không đi với con?
·
Mẹ sợ , mẹ không dám nhìn lại.
Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em
được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:
Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc
tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu
lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai
chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu.
Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5
người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.
Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em
Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi
ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange County,
California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng
Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).
Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh có lồng
may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng
Việt.
Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ,
nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy
mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện
nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu như những
viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây xát. Không
có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.
Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng
trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc
cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.
Một Mộ Bia Tập Thể Của Người Việt Trên Đất Mã Lai.
Người
Chủ của Những Ngôi Mộ Thuyền Nhân
Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi) Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B,C,D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B,C,D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.
Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới
đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không?
Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn
cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:
Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.
Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.
Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn
ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách)
Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa
trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin
lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban
xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình Cha Tâm Dâng Lễ.
Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt
rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.
Hòa Thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau khi ở Koh
Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật Giáo mỗi lần tới các phần mộ,
anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài
kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:
Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe
kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly
biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ
nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui…..
Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các ngôi mộ,
không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng
mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa phương nên
mua được rất nhiều ( Theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19.8 % theo đạo Phật).
Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn
bà Hoa, được những người trong nhóm giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông
Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân
trôi vào bờ bãi Mã Lai.
Chân Dung Ông Wong và Bia Công Đức.
Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể,
hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn
sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia
Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển
phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau
là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.
Chân Dung Ông Wong và Bia Công Đức.
Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những
cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi
ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy
vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông
nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (Về sau ông
được Hội Hồng Nguyệt Red Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi
được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).
Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất,
còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.
Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như “Mồ
vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “Chủ” những nấm mồ này.
Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông
vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you forever.”
Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt
Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?
Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu
tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh
Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.
Đảo
Bidong và Những khu mộ
Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền
này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa
trưa nắng gắt.
Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền nhân sống sót
tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ
hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ
được mang lên đỉnh đảo chôn cất.
Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng.
Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước
thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng
lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây trên con số
200.
Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có nhà thờ Công Giáo, Tin
Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông
vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém
cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn linh thiêng nữa)
Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.
Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung quanh đồi,
Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung bao quát bãi
cát dưới chân đồi.
Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào,
giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc
gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính bản thân mình? Bao
nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh chia
ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát? Bao cảnh đời
uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người
đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời
nơi này?
Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của
mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương?
Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt lệ, những
tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn luôn “Đi
không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất nước mình.
Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống
đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống
lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng
lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay.” Giơ
tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.
Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ
lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ
thuyền nhân.
Rải
Rác Mộ Thuyền Nhân Dọc Đường
Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có
hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác thuyền nhân
giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi được 2,3,
khi được 5,7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.
Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ
Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi
mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc chung
một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.
Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt trong một
nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công Giáo St.Thomas trông coi. Những thân xác
thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của: Thiên Chúa Giáo, Phật
Giáo và Hồi Giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.
Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi biết
bao!
Nhang được thắp lên, lời kinh được cất lên, nước mắt
lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.
Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân
Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi
nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: Ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ.
Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có
khi lập miếu thờ.
Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất hạnh đó,
một cái xác của chính mình.
Những cái xác của đồng bào mình (hay của chính mình)
đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại in thành sách
(như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.
Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện
giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi
mộ không tồn tại được.
May mắn thay Văn Khố Thuyền Nhân của
người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan,
Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (Theo VKTN-Trong vùng Đông Nam
Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).
Tôi
Đọc Tên Tôi
Hội Hồng Nguyệt ( Malaysian Red Cresent Societ - Hồng
Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200,000) hồ sơ của những người sống
sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm
được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt
lệ:
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay
Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của
ông Dato’ Sayed A. Rahman,Tổng Thư Ký hội Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần
biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người.” Nghe mà ứa
nước mắt.
Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được
vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng
tiếng Việt, bài hát “Bài Tình Ca Cho Em” của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách
bất ngờ!
Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống
những thiên thần cứu trợ.
Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những
trang Sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của
người Quốc Gia chết cho Tự Do là một trang Sử mới được cộng vào.
Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.
Trần mộng Tú
Ngày 20 tháng 4 năm 2017
Viết trong cuộc hành trình về Trại Tỵ Nạn Songkhla,
đảo Koh Kra và Trại Tỵ Nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4-2017
(*) Những câu Thơ trong bài của tác giả Trần Mộng Tú
Bài:
Trần Mộng Tú
Hình: Trùng Dương
Hình: Trùng Dương
No comments:
Post a Comment