Trong
thời gian qua, nhiều hình ảnh của anh Điếu Cày có kèm theo hàng chữ “Khi bài
hát trở về”. Nhiều bạn, và có lẽ cả anh Điếu Cày, không biết rõ nguồn gốc từ
đâu. Đó là bìa tác phẩm Khi Bài Hát Trở Về của Trần Trung Đạo do các em thanh
niên, sinh viên trong nước in 5 năm trước. Dĩ nhiên in không kiểm duyệt, chuyền
tay nhau đọc và phát hành trong vòng kín đáo. Các em chọn bài Khi Bài Hát Trở
Về, một trong những tiểu luận có trong tác phẩm để làm tựa cho cuốn sách và đặt
tên cho nhà xuất bản là Điếu Cày. Bài viết khởi nguồn từ cảm xúc lần đầu nghe
nhạc phẩm Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang được tuổi
trẻ Việt Nam trong nước hát lên trong ngày biểu tình chống chủ nghĩa bành
trướng Trung Cộng năm 2008. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã đọc bài viết và nhạc sĩ
Việt Dzũng cũng đã đọc một phần của bài viết để giới thiệu nhạc phẩm Việt Nam
quê hương ngạo nghễ tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Cả hai anh đều đã qua
đời. Những người yêu nước, có kẻ vừa đến và người đã ra đi nhưng bài hát đầy
ngạo nghễ của một dân tộc đã vươn lên từ bao nhiêu khốn khó sẽ còn được hát.
Xin chia sẻ bài viết Khi Bài Hát Trở Về
Nếu
phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất
nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của
những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước
đây, tôi tin, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang
sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.
Không
giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy mà đi
của Nguyễn Xuân Tân, Tổ quốc ơi ta đã nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ
nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời
đã bị đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô
thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu
gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi
trẻ, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau
của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi
trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người.
Trong
vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một
biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn
khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.
Ta
như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường
dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê
sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi
mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời
nhạc của Việt Nam quê hương ngạo nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng
ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo
nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang
vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho
Việt Nam quê hương ngạo nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca
yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau.
Việt
Nam quê hương ngạo nghễ đẹp tự nhiên như một đóa lan rừng, không mang màu sắc
chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan
nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng
chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính
trị nào. Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ
đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng đạo, Du ca đến các tổ
chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các
quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể
xã hội từ thiện đều hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ.
Sau
1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù.
Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát lên, kín
đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng
của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hóa thành
những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam
sa cơ thất thế.
Những
năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường
ra biển tìm tự do. Việt Nam quê hương ngạo nghễ lại được hát lên giữa Thái bình
dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom
trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống
cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo,
Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các
trại hè, trại họp bạn Hướng đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc
sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ
đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam quê hương ngạo nghễ trong âm nhạc Việt
Nam: “…Thế bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng vậy, nó không phải là một
bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca
vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường
ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch
khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết
nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết
bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi
đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê
hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ
dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không
ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ
đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng
của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn
về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó
là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường
Ca lúc đó mà thôi.”
Thật
đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi nào đặt hàng
hay một ông Tổng ủy trưởng Dân vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không
phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm
hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự
nguyện. Anh viết Việt Nam quê hương ngạo nghễ để kết thúc tập trường ca của
riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước. Sau ba mươi
năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác
nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây
là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngả của trái tim, trở về
trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.
Bất
ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog
Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường
phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại
cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài
hát quen thuộc Việt Nam quê hương ngạo nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một
niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California,
Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc
biểu tình chống Trung Cộng bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại,
nghi ngờ, xa cách.
Ta
khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ
cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ
cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước
tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong
số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe
đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên
truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay
không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng
là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi
trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.
Văn
hóa không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được
sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975
hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hóa đồi trụy” mà đảng tìm mọi
cách để xóa bỏ, tận diệt. Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông
hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về.
Để
tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc
bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính
trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước
trong sáng như Việt Nam quê hương ngạo nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi
trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.
Là
một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về
thời trẻ tuổi của mình.
Tôi
còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương
ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ
đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ
Giáo dục và Thanh niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường
Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ
được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ
và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau,
khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại.
Những
ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân nên máu chảy
trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của “mùa hè đỏ lửa”
chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có
người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước
hòa bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè,
chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu
Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu
nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam quê hương
ngạo nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:
Máu
ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương
da thịt này cha ông miệt mài
Từng
ngày qua
Cười
ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng
ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên
bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn
Việt Nam
Triệu
con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những
giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao
có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà
không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài
hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng,
Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Cộng. Những bản tin đánh đi
từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm
rơi nước mắt.
Và
hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời
nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh,
những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba
năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu
đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng
giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Cộng xâm lăng.
Việt
Nam, sau hơn ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận
nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Cộng trên đầu.
Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có
biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận
Trường Sa đã bị Trung Cộng chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó,
ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư
dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông.
Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng
Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng
dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.
Trong
suốt dòng lịch sử, họa xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe dọa thường xuyên.
Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải
chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần
thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương
“Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần
Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập
trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện.
Trận
đụng độ giữa Việt Nam và Trung Cộng diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả
Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước? (The
Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt
Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự
chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai
quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.
Dù
sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ
Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa
chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên
tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước
phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.
Trong
cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu
bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không
hát nữa?
Như
một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu
sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong
những bài hát các em hát. Sau những Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Dậy
mà đi, Nối vòng tay lớn của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước
đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị
ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.
Ta
như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt
lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da
chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm
vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi
khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất
hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế
nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia,
phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết
đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự
hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam
hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần
học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho
một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta
khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm
người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm
người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi
những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.
Việt
Nam quê hương ngạo nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày
nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành
mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt
của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng.
Từ
“vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc
lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị,
Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững
tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.
____________________________________
©
2008 talawas, 2014 facebook
Tham
khảo:
- Nhạc phẩm Việt Nam
Quê Hương Ngạo Nghễ
No comments:
Post a Comment