Tuesday, April 14, 2009

CUỘC RÚT QUÂN KHỎI QUẢNG ĐỨC THÁNG 3-1975

CUỘC RÚT QUÂN KHỎI QUẢNG ĐỨC
THÁNG 3 – 1975
Thiếu Tá TRẦN VĂN BƯỜNG
http://tvvn.org/tvvn/index.php?categoryid=67&p2_articleid=310

Giới thiệu tỉnh Quảng Đức


Sau khi thắng trận đánh thừa chết thiếu sống tại Căn Cứ 42A (đèo Chupao-Pleiku), ngày 19/6/1972, tôi được vinh thăng thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Ðây là một phần thưởng cao quý nhất tôi may mắn được (vì lên cấp tại mặt trận rất hiếm hoi đối với quân đội, đặc biệt binh chủng Pháo Binh (PB) như tôi lại càng khó khăn gấp trăm lần). Một tháng sau tôi rời tiểu đoàn 233 PB sang làm tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 69 PB đóng tại Biển Hồ Pleiku. Với chức vụ mới này, tôi thường đi hành quân với tư cách Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Quân Khu II của Ðại Tá Phạm Duy Tất (sau lên chuẩn tướng) hoặc Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn II (QĐII).
Vào giữa tháng 12/73, từ Pleiku tôi theo Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân Đòan II do Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy bay đến Tiểu Khu Quảng Ðức (TK/QÐ) điều động cuộc hành quân giải tỏa áp lực địch tại căn cứ Buprang (quận Kiến Ðức). Căn cứ này nằm cạnh quốc lộ 14 sát ranh giới Campuchia, cách thị xã Gia Nghĩa (Quảng Ðức) chừng ba mươi cây số, được bảo vệ bởi Liên Đoàn Địa Phương Quân (ÐPQ) của Tiểu Khu Khánh Hòa và Tiểu Khu Quảng Ðức. Vừa đến Trung Tâm Hành Quân TK/QÐ chưa tới hai đêm, căn cứ Buprang bị thất thủ bởi đặc công địch được xe tăng T54 yểm trợ. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nghĩa (Phan Thiết), Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Tiểu Khu Quảng Đức bị mất tích trong trận này. Tôi nhận lệnh thay thế Thiếu Tá Nghĩa ngay hôm đó. Một tuần sau Đại Tá Phạm Văn Nghìn về làm tỉnh trưởng Quảng Ðức thay thế Trung Tá Nguyễn Văn Thiện và sau đó, ông giao tôi kiêm nhiệm luôn chức vụ tham mưu phó Hành Quân Tiểu Khu. Vì vậy tôi có dịp đi lại nhiều nơi, biết nhiều điều đặc biệt về quân sự thuộc TK/QÐ từ lúc tới cho đến khi rút quân. Trước khi trình bày cuộc rút quân của TK/QÐ, tôi xin nói sơ lược về tỉnh này.
Quảng Ðức là một tỉnh nhỏ được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, nằm dọc theo quốc lộ 14 giáp ranh Campuchia và các Tiểu Khu Phước Long, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và Ban Mê Thuột. Tỉnh có ba quận: Kiến Ðức, Ðức Lập, Khiêm Ðức (Gia Nghĩa) và Chi Khu biệt lập Ðức Xuyên. Dân chúng hầu hết là người Thượng sống về nghề làm rẫy và săn bắn thú rừng, còn lại là người Kinh, hầu hết là gia đình quân nhân, công chức và dân buôn từ miền xuôi lên. Ðặc biệt quận Ðức Lập nằm về hướng Bắc của tỉnh Quảng Ðức, giáp với thị xã Banmêthuột, đất đai màu mỡ, dân chúng phần nhiều là người miền Trung di cư vào lập nghiệp từ năm 1954, sau ngày chia đôi đất nước, sống về nghề trồng trà và cà phê rất thịnh vượng. Quảng Ðức là một tỉnh nhỏ và nằm sát ranh giới Campuchia, hành lang xâm nhập của quân Bắc Việt nên chịu áp lực của Cộng Quân rất nặng nề. Từ năm 1972, quốc lộ 14 nằm song song và sát với ranh giới Miên Việt xuyên qua ba tỉnh Phước Long, Quảng Ðức, Banmêthuột bị gián đoạn giữa ranh giới Phước Long và Quảng Ðức. Vì vậy Quảng Ðức chỉ còn sử dụng được đoạn đường bộ duy nhất từ Bubinh xuyên qua thị xã Gia Nghĩa đi Ban Mê Thuột mà thôi. Tỉnh Phước Long rơi vào tay địch đầu năm 1974.

Trận đánh mở màn “Chiến Dịch Mùa Xuân” của Việt Cộng

Theo tin tình báo cũng như tài liệu thu được tại chỗ do pháo binh bắn quấy rối và hệ thống điện tử chung quanh Chi Khu Ðức Lập cho biết: Sư Đoàn 968 Tân Lập cùng Sư Đoàn 10 Bắc Việt có thể sắp tấn công Ban Mê Thuột, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức, Đại Tá Phạm Văn Nghìn đã xin thêm quân phòng thủ quận Ðức Lập nhưng chưa được. Sáng ngày thứ bảy (8/3/75), tôi tháp tùng Đại Tá Nghìn đáp trực thăng ra quận Ðức Lập có gặp Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đòan 23 Bộ Binh (BB) cũng đến đây thị sát tình hình. Ðại tá Nghìn chỉ thị Trung Tá Trần Nguyên Khoa (khóa 18 Ðà Lạt), Trung Đòan Phó Trung Đòan 53 Bộ Binh, đang chỉ huy Trung Đòan trừ đóng gần Chi Khu Ðức Lập phải dời Bộ Chỉ Huy Nhẹ của ông cùng các đơn vị bảo vệ vào căn cứ Daksak, một căn cứ thật kiên cố do Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ để lại, cách vị trí đóng quân hiện tại chừng ba cây số. Hiện Trung Đoàn 53 BB trừ đang được tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Đức.
Nói là Trung Đoàn trừ chứ thực sự quân phòng thủ tại Bộ Chỉ Huy Nhẹ này chỉ có một Chi Đoàn trừ (-) 1/8 Thiết Vận Xa M113 của Đại Úy Tánh, Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn mà phân nửa đã hoạt động bên ngoài tìm tin tức, một Trung Đội Pháo Binh 105 ly (Tiểu Ðoàn 231PB), một Trung Đội PB155 ly thuộc Tiểu Đoàn 230PB và một ít bệnh binh của Tiểu Đoàn 2/53BB. Thám sát xong, nhận thấy không có đủ thời gian, việc di chuyển dời lại sáng hôm sau (9/3/75). Nào ngờ, khoảng năm giờ sáng-trước giờ quân ta chuẩn bị di chuyển vào căn cứ Daksak như dự định, Cộng Quân bắt đầu pháo ào ạt rồi sau đó tấn công biển người vào các đơn vị ta.
Đáng tiếc thay, những đợt pháo đầu tiên lại trúng ngay vào Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Trung Tá Trần Nguyên Khoa. Dù ông là một sĩ quan giỏi, lanh lợi, đã từng được thăng cấp tại mặt trận nhưng vì nơi đóng quân hiện tại là một căn cứ dã chiến, hầm hố không được kiên cố lắm nên không chịu nổi sức công phá của các loại pháo địch, đặc biệt pháo 130 ly. Cầm cự không lâu, hơn phân nửa số thiết vận xa bảo vệ Bộ Chỉ Huy Nhẹ bị tê liệt, hầm chỉ huy của Trung Tá Khoa bị sập, Đại Úy Bùi Minh Ngọc (Phan Thiết), Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Trung Đoàn 53 BB bị thương nặng và chết ngay sau đó, Trung Tá Trần Nguyên Khoa bị thương ở sau ót và cánh tay trái gãy gần đứt lìa được lính pháo binh dìu ra khỏi căn cứ nhưng rồi bị bắt làm tù binh ngày hôm sau. Nếu.. nếu... hôm đó (8/3/75), Bộ Chỉ Huy Nhẹ Trung Đoàn 53 di chuyển đi, Việt Cộng không điều nghiên kịp mục tiêu, tình hình có thể khác. Ðiều này rất đúng với câu ta từng nghe “Không nên để lại ngày mai những gì có thể làm hôm nay.”
Chi Khu Ðức Lập gần đó cũng bị pháo và tấn công tơi bời cùng một lúc nhưng nhờ hầm hố kiên cố cộng với sự gan lì, mưu lược của Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Cao Vực (Khóa 13 Ðà Lạt), Việt Cộng không làm gì được, đành bỏ đầy xác ngoài bờ rào quận. Cùng lúc tại căn cứ Núi Lửa cách Chi Khu Ðức Lâp về phía Tây chừng sáu cây số, nơi Trung Đội Pháo Binh 105 ly của Trung Úy Nguyễn Văn Quý (Phan Thiết) đóng, được bảo vệ bởi Đại Đội Chỉ Huy thuộc Tiểu Đoàn 261 ÐPQ/QÐ (các đại đội tác chiến hoạt động bên ngòai) của Thiếu Tá Bùi Ngọc Long cũng bị pháo khủng khiếp.

Tóm lại, Việt Cộng đồng loạt tấn công ba nơi trên cùng một lúc với những cơn mưa pháo tới tấp khiến chúng ta không thể yểm trợ hỗ tương nhau được. Chúng đã áp dụng tiền pháo hậu xung biển người trận này rất hiệu quả. Khoảng bảy giờ sáng, sau khi nhận được chiếc trực thăng tăng phái từ Phi Đòan 235 Trực Thăng Pleiku, tôi tháp tùng Đại Tá Nghìn bay về hướng Ðức Lập. Trước khi rời Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu ra trực thăng, tôi còn nghe Trung Úy Quý vừa nói vừa cười báo cáo thành tích hạ địch của đơn vị mình: “Bắn đã tay quá Bắc Bình ơi. . .” Bắc Bình là danh hiệu tôi thường dùng trong nội bộ pháo binh. Tôi mừng thầm lên phi cơ gọi tiếp anh để biết tình hình nhưng không thấy Trung Úy Quý trả lời. Bên tần số bộ binh bảo vệ anh cũng không liên lạc được. Bay gần tới Căn Cứ Núi Lửa cũng không thấy hồi âm mà chỉ thấy một làn khói trắng từ căn cứ bốc lên. Làn khói đó, chính địch đã đánh dấu cho phe chúng biết đã chiếm được mục tiêu Núi Lửa. Thấy làn khói bốc lên chúng tôi nhìn nhau không ai nói gì ngoài sự ngậm ngùi thương xót số phận quân mình, thuộc cấp mình và chỉ còn có cách báo cáo lên thượng cấp và xin tăng viện từ Sư Ðoàn 23BB và Quân Đòan II.

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để nói rõ hơn về sự mất liên lạc đột ngột nói trên. Cuối năm 1983, sau khi được phóng thích khỏi trại tù (từ Nam ra Bắc), trên đường về Phan Thiết thăm Ba Má tôi, tình cờ gặp anh Nguyễn Văn Quý (trung đội trưởng PB Núi Lửa nói trên) đang bán quán cà phê chồm hổm tại bến xe Phan Thiết đi Sài Gòn. Anh em nhìn nhau nghẹn ngào trong lần tái ngộ đau thương giữa cuộc đổi đời cay nghiệt. Anh mời tôi dùng ly cà phê gọi là tình nghĩa thầy trò thuở nào trong đơn vị. Nhắc lại chuyện mất liên lạc tại Căn Cứ Núi Lửa năm nào, anh trầm ngâm một lát, ánh mắt hướng về nơi xa xăm dường như để hồi tưởng lại quá khứ đầy u ám rồi cho biết, “Sở dĩ mất liên lạc với tôi vì đang bắn địch ngon lành, bỗng dưng đài tác xạ bị pháo sập chết mấy quân nhân và địch ùa vào từ lưng đồi phía sau bất ngờ không trở tay kịp đành phải tìm đường “tẩu mã.” Anh vừa nói vừa cười một cách chua chát, đắng cay vì phải dùng từ tẩu mã. Tôi hỏi anh, “Anh bắn hay quá, sao để chúng bắn sập hầm chỉ huy?” Mặc dù biết tôi đùa nhưng anh cũng giải thích cho vui, “Chúng trốn chui trốn nhủi nơi nào mình đâu có biết, trong khi đó mình nằm một chỗ trơ trơ chúng bắn điều chỉnh một hồi phải trúng thôi.” Và cũng tại bến xe đò đó năm nay (11/2006), khi từ Mỹ trở về thăm gia đình, người chạy Honda ôm cho tôi biết anh Quý đã trở thành người thiên cổ, tôi không còn cơ hội mời lại anh dùng một ít chất cay, vĩnh biệt Quý, một đàn em đáng mến thuở nào.

Tóm lại, lúc bấy giờ chỉ còn Chi Khu Ðức Lập của Trung Tá Nguyễn Cao Vực, dù không được yểm trợ của quân bạn vẫn cầm cự với địch. Ngòai việc kêu gào cấp trên tăng viện gấp, Đại Tá Tỉnh Trưởng vẫn bay vòng vòng rất thấp trên khu vực quận Ðức Lập đến trưa đễ hướng dẫn, trấn an và khuyến khích Trung Tá Vực và thuộc hạ cố gắng phòng thủ chờ quân ta tiếp viện. Xa xa đằng kia, cũng tại vùng trời Đức Lập, Trung Tá Võ Ân (Khóa 12 Thủ Ðức), Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53BB (lên Đại Tá trước ngày quân ta nhận lệnh đầu hàng) cũng đang bay tìm quân của Bộ Chỉ Huy Nhẹ Trung Đoàn đang thất lạc. Khác với những lần trước, mỗi khi bị địch tấn công mạnh, ngòai lực lượng pháo binh sẵn có, phi cơ yểm trợ đủ loại bay đầy trời; lần này, mấy ngày nay vùng trời Ðức Lập phẳng lặng, vắng vẻ làm sao! Tàu bay tàu bò biến đâu cả ngòai hai chiếc trực thăng chỉ huy nói trên.

Trong khi đó tại ngã ba Dakson cách Căn Cứ Núi Lửa chừng tám cây số về hướng Tây do Tiểu Đoàn 2/53 BB của Ðại Úy Nguyễn Tiên (khóa 2 Thủ Ðức vừa thay thế Thiếu Tá Võ Ðức Lai) và một Trung Đội Pháo Binh 105 ly đóng quân, không thấy đấm đá gì, nhưng không hiểu tại sao chúng tôi không liên lạc được họ. Quá đau lòng trước sự thất thủ của quân bạn gần đó không được yểm trợ nên sau khi Đại Tá Nghìn quay về Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu, tôi cùng phi hành đoàn mỗi người một khúc bánh mì bay trở lai hướng Dakson.
Trực thăng bay vòng nhiều lần trên vùng này, càng lúc càng thấp để cố gắng liên lạc và quan sát tình hình. Thấy Tiểu Đoàn 2/53BB vẫn đang tư thế bố trí sẵn sàng chiến đấu, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Hùng Thầy Tu hay anh Vệ ) tìm cách đáp xuống. Anh bay thêm mấy vòng để xem hướng nào thuận tiện và an tòan, rồi anh... đột nhiên nhào xuống rất nhanh trông như chú diều hâu đang xà xuống gắp mồi. Ðang tư thế sắp đậu, bỗng nhiên nhiều loạt pháo đối phương rớt cạnh máy bay khiến anh ta cho tàu lướt về phía trước cất cánh lên lại, xém đụng rừng cây trước mặt. Một phen xém chết đã qua! Anh quay lại nhìn tôi với nét mặt thầm trách, “Nguy hiểm vậy mà bảo đáp.” Anh phi công này rất lanh lợi và bình tĩnh, nếu không thì cả tàu không chết vì pháo địch cũng chết vì các cành cây. Từ đó đến khi rút bỏ Tiểu Khu Quảng Ðức, tôi không liên lạc được với cánh quân này.
Ngày thứ nhất trôi qua, ngày thứ hai trông chờ quân ta tăng viện như cấp trên đã định. Bất hạnh thay! Ngày thứ hai đó lại là ngày thất vọng nhất khi Cộng Quân tấn công thẳng vào thị xã Banmêthuột và phi trường Phụng Dực. Riêng các lực lượng khác của ta đồn trú tại Quảng Ðức đều bị địch cầm chân cả không thể nào lấy đi giúp Ðức Lập được. Càng chờ đợi, sự tổn thất càng tăng lên trước những loạt pháo đủ cỡ cuả địch; mặt khác không còn trông chờ vào sự tăng viện của quân bạn được nữa, Trung Tá Vực cùng thuộc cấp đành rút khỏi quận, băng rừng về căn cứ Ðạo Trung mấy ngày sau và được trực thăng đón về Tiểu Khu Quảng Ðức (Ðạo Trung cách Quảng Đức trên 15 cây số) .

Rút quân

Ðức Lập và Banmêthuột đã mất, từ trái (Phước Long) sang phải, cả về hướng trước mặt của tỉnh Quảng Ðức đã hoàn tòan lọt vào tay Việt Cộng, chỉ còn một phần phía sau giáp với tỉnh Tuyên Ðức và Lâm Ðồng, phân ranh bởi sông Kinh Ðà, con lộ duy nhất nối liền hai tỉnh Quảng Ðức, Lâm Ðồng đã bỏ phế từ lâu và do Việt Cộng kiểm sóat.
Như vậy tỉnh Quảng Ðức đã mất gần phân nửa lãnh thổ. Trước tình trạng tỉnh bị cô lập tam hướng lại không còn được yểm trợ quân sự và địch ngày càng bám sát đánh phá ta nhiều nơi trong tỉnh, khiến tinh thần chiến đấu quân dân có phần sa sút. Các vị thân hào nhân sĩ trong tỉnh đã liên lạc với trung ương xin tỉnh Quảng Ðức được rút bỏ sớm hầu giảm thiểu sự thiệt hại. Chưa thấy kết quả ra sao, bỗng trưa ngày 25 tháng 3 năm 1975, khi biết tin Quân Đoàn II bị tổn thất nặng nề lúc rút lui và toán Liên Lạc Không Quân (ALO) Tiểu Khu Quảng Ðức đột nhiên lên trực thăng rời tỉnh, mang theo tất cả phương tiện điều động không yểm, khiến tinh thần quân dân trong tỉnh càng thêm nao núng.

Hôm đó, trong lúc Ðại Tá Phạm Văn Nghìn đang đi họp ở QÐ II chưa về, Trung Tá Phạm Ðức Dư, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu, liền tổ chức buổi họp khẩn cấp. Ngòai sự hiện diện của Trung Tá Dư còn có Trung Tá Hồng Kim Thanh, Liên Đòan Trưởng Liên Đoàn 24 BÐQ đóng tại quận Kiến Ðức; Thiếu Tá Trần Văn Bường, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân Tiểu Khu; Thiếu Tá Phạm Văn Tư, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu (đừng nhầm với Thiếu Tá Phạm Văn Tư khóa 19 Ða Lạt, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu, vượt ngục bị bắn chết tại trại tù Suối Máu, Biên Hòa năm 1976). Vừa vào họp, Trung Tá Dư tuyên bố, “Hôm nay chúng ta hành quân về phương Ðông.” Chỉ một câu đơn giản ai cũng hiểu đó là lệnh rút lui, không cần sơ đồ phóng đồ gì cả. Thành ra, với vị trí đóng quân hiện tại, Liên Đoàn 24 BÐQ đi theo phương giác từ, từ quận Kiến Ðức về Lâm Ðồng, các đơn vị cơ hữu hoặc tăng phái tiểu khu cũng từ nơi đóng quân di chuyển về Lâm Đồng.
Sau khi rời phòng họp, tôi cho lệnh Thiếu Tá Trưởng Phòng 3 Phạm Văn Tư ra lệnh các đơn vị tăng phái cũng như các đơn vị trực thuộc đóng quân quanh thị xã, đi theo đường mòn “xe be” đến bờ phà sông Kinh Ðà về quận Di Linh (Lâm Ðồng), các đơn vị còn lại tùy tình trạng an ninh tại chỗ rút về Lâm Ðồng. Trung Tâm Hành Quân, Trung Tâm Tiếp Vận Tiểu Khu, đặc biệt kho xăng và kho đạn phải phá huỷ; không được phá phách bệnh viện, phố xá, chợ búa. Cần nói thêm, trong thời gian này, Tiểu Khu Ninh Thuận tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Ðức hai đại đội biệt lập (4 đại đội luân phiên), một của Đại Úy Nguyễn Văn Ðức (Phan Thiết, Khóa 20 Ðà Lạt), một của Đại Úy Tôn Thất Kỳ (Huế), Đại Úy Trần Công Triệt (Phan Rang, Khóa 18 Ðà Lạt) và...
Riêng pháo binh, tôi cho lệnh các trung đội trưởng phá huỷ súng bằng loại lựu đạn M14 (lựu đạn có chứa chất chì đặc biệt chảy ra bám vào nồng súng không sử dụng được). Chỉ có trung đội pháo binh của Trung Úy Bá đóng trên đường hành quân được giữ nguyên kéo theo đòan quân thôi.

Đoàn quân dân rời Bộ Chỉ Huy Quảng Ðức được khoảng năm giờ đồng hồ, một tin không vui đưa đến. Từ đầu máy bên kia, Trung Úy Bá báo cáo, “Chiếc cầu nhỏ bắc qua suối bị hư không thể nào kéo súng qua được Bắc Bình ơi!”
Chết cha! Đi hành quân không có đại bác yểm trợ cả một sự bất lợi khi địch xuất hiện ngòai tầm vũ khí cá nhân hay dùng biển người tấn công ta. Tôi than thầm như vậy, nhưng mặt khác vẫn cố giữ bình tĩnh ra lệnh cho anh Bá cố gắng thám sát hai bên cầu tìm mọi cách kéo súng qua. Bấy giờ trời vừa tối, ánh hoàng hôn cuối cùng vừa bị khuất sau rặng núi cao. Tôi vừa cho đòan quân tạm nghỉ. Chừng nửa giờ sau, Trung Úy Bá cho biết không có nơi nào đem súng qua được vì con rạch tuy nhỏ nhưng đất mềm dễ bị lún. Tôi đành cho lệnh phá súng pháo binh và tiếp tục bám sát theo đòan quân trước. Ði được hơn một giờ đồng hồ đòan quân nghỉ qua đêm và tới bờ sông Kinh Ðà khoảng năm giờ chiều ngày hôm sau.
Ðang chuẩn bị vượt sông để theo đường mòn về hướng quận Di Linh như lời đề nghị của Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn (Quận Trưởng Di Linh cùng Khóa 18 Ðà Lạt với Trần Nguyên Khoa và tôi), bỗng từ bên kia bờ sông có tiếng la của đám Việt Cộng dội lại, “Muốn qua sông phải bỏ súng xuống, đi từng người một, đưa hai tay lên đầu.” Nghe chúng hô “Ðưa tay lên đầu,” mình đâm tức xổ nho, “Ð.. m... đầu hàng cái ....” Quan sát thấy chúng chỉ có chừng mươi lăm người nối tiếp nhau đi chung quanh các gốc cây cổ thụ bên bờ sông để chúng ta lầm tưởng họ nhiều lắm. Biết vậy, nhưng vì khúc sông này rộng khoảng bốn năm trăm thước; nước sâu tới rốn chảy hơi xiết khó lòng vượt nhanh để lấn áp chúng. Tôi tiếc thầm, nếu súng pháo binh không bị bỏ laị, ta chỉ cần trực xạ mấy quả cha con chúng nhảy hết, tha hồ lội qua sông. Nhưng dù sao cũng may cho chúng ta phát giác được chúng bên đó, nếu không, đòan quân ta cứ tà tà lội qua như chỗ không người thì sẽ... nếu không bị bắt làm tù binh thì cũng bị đi mò tôm cả đám giữa giòng sông. “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng,” ông bà ta nói như vậy. Biết mình ở thế bất lợi, thôi đành nhịn nhục tìm đường khác đi để tránh thiệt hại, đó là thắng vậy.
Sau khi bàn với Trung Tá Dư, tôi cho lệnh Đại Úy Ngô Văn Nhị (Khóa 12 Thủ Ðức), Chỉ Huy Phó của tôi, hướng dẫn toán quân hỗn hợp Ðịa Phương Quân và Pháo Binh đi lui về sau, dùng phương giác từ đi về hướng Tây dọc theo bờ sông tìm chỗ vượt sông dễ hơn để đánh bọc hậu địch cho đòan quân sau vượt qua.
Mục đích cho đi luì về sau để đánh lạc hướng địch và dân chúng khỏi bám theo. Nếu dân chúng bám theo sẽ làm lộ kế hoạch; hơn nữa họ không thể gồng gánh, bồng bế con cái lên đồi xuống dốc được. Bảo vệ an ninh họ, phía sau còn có quân của Chi Khu Khiêm Ðức do Thiếu Tá Quận Trưởng Nguyễn Khắc Hiếu (Khóa 19 Ðà Lạt) chỉ huy, bên cạnh đó còn có mặt cả hai vị Trưởng và Phó Ty An Ninh Quân Đội (Thiếu Tá Ðậu Văn Ðề, Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðiệp) và nhóm Cảnh Sát Quốc Gia của Trung Tá Giang.
Trong khi cánh quân của tôi đi về phía phải (hướng Tây) thì Tiểu Đòan 259 ĐPQ của Thiếu Tá Phan Văn Giỏi đi về phía trái (hướng Ðông) dọc sông Kinh Ðà về cầu Đại Ninh, ranh giới Ðà Lạt và Lâm Đồng. Ði nhiều hướng địch không thể theo dõi hết.

Màn đêm dầy đặc, đòan quân di chuyển rất chậm, nhiều lúc phải sử dụng đèn “pin” tìm lối đi. Thỉnh thoảng nghe nhiều tiếng kêu “oan ốt” từ xa của các chú mang (nai con) lạc đàn hoặc thấy những đôi mắt ngơ ngác dại khờ của các chị mễn đang nhìn chăm chăm ánh đèn “pin.” Bình thường gặp như vậy số mạng các chị xem như đã xong rồi; đằng này có lệnh không được nổ súng chỉ trừ trường hợp gặp địch. Nhờ vậy các chị được thêm tuổi thọ.
Lội suốt đêm gần tới năm giờ sáng, Đại Úy Ngô Văn Nhị báo cáo đã tới khúc sông có thể vượt được. Ðại Úy Nguyễn Duy Huynh, xử lý thường vụ Trung Tâm Tiếp Vận thay thế Thiếu Tá Trương Minh Dũng đi học, tiến về phía trước tăng cường cho Đại Úy Nhị tìm cách vượt sông. Vì đường đồi lên xuống khó khăn, tối om như mực lại đi theo phương giác từ trong màn sương bao phủ nên khi gặp bờ sông, chỉ cách điểm đứng chiều hôm qua ba bốn cây số thôi. Khúc sông hơi cạn, đá lởm chởm, nước chảy hơi siết có thể vượt được. Ðại Úy Nhị cho anh hạ sĩ quan Pháo Binh buộc sợi dây thừng lội qua bờ sông bên kia cột vào gốc thông nào đó cho đòan quân sau nắm đi qua. Chẳng may anh này bị trượt chân và chết giữa giòng sông. Tóan quân gần đó đổ xô tới tiếp cứu nhưng vô vọng. Sợ bị lộ điểm vượt sông bởi những tiếng la ồn ào khi tiếp cứu, đòan quân tiếp tục đi tìm nơi an tòan hơn để vượt. Ði mãi đến chiều mới gặp khúc sông sâu rộng, nước chảy lờ đờ có thể vượt qua dễ hơn.

Vượt sông Kinh Ðà về Bảo Lộc

Theo các quân nhân từng sống ở đây cho biết khúc sông này có thể có cá sấu nguy hiểm. Dù vậy, nhưng không thể nào đi xa hơn về hướng Tây sợ bị ngộ nhận với Liên Đòan 24BÐQ cũng đi về Lâm Ðồng phát xuất từ phi trường Nhơn Cơ. Hơn nữa, càng đi xa về hướng Tây điểm đến Bảo Lộc càng xa, thà vượt sông nơi đây rủi gặp cá sấu đói chỉ nuốt vài người xấu số còn hơn quanh quẩn lâu trong rừng càng nguy hiểm mà chưa chắc có nơi nào tốt hơn. Lệnh chặt cây kết bè ban hành, chỉ có những người yếu hoặc không biết lội mới được ngồi trên bè thôi.
Bộ Chỉ Huy qua bờ sông bên kia trời đã khuya, tất cả đòan quân nghỉ đêm, đồng thời giữ an ninh cho số người qua sau. Dù hai ngày qua chưa có hạt cơm nào trong bụng nhưng không cảm thấy đói. Phải chăng cái đói nhường chỗ cho sự mệt nhọc lo âu. Theo dõi hệ thống truyền tin, được biết đòan quân dân hôm qua kẹt tại bờ Kinh Ðà, được Đại Tá Tỉnh Trưởng lần lượt chuyển qua Bảo Lộc (Lâm Ðồng) nên ý nghĩ quay lại cứu họ không còn nữa. Với tình hình hiện tại, tôi nghĩ, địch không còn lẩn quẩn trong rừng như trước mà đã ra thị thành uy hiếp quân ta. Nghĩ vậy nên sự e ngại bị phục kích không còn cao và khi gà rừng vừa dứt tiếng gáy báo hiệu bình minh đang đến, tôi cho lệnh đòan quân phía trước tiếp tục đi theo đường mòn về hướng xã Tân Rai (Lâm Ðồng) mặc dù phải băng qua các hậu trạm của Việt Cộng. May mắn không có gì trở ngại trên đường hành quân, nhờ vậy thời gian đến Lâm Ðồng rất nhanh (ba đêm bốn ngày). Tóan quân đi trước băng qua các nhà lá Việt Cộng chỉ gặp mấy chàng thương binh bắn vài phát súng lẻ tẻ rồi đâm đầu vọt hết. Các trạm này (nhà lá) chứa đầy ắp các bao gạo Mỹ, còn mới tinh, lính đốt bỏ.

Trên đường về Tân Rai vài quân nhân cho tôi biết, “Đêm vượt sông, khi bè gần đến bờ có nghe vài tiếng ơi ới rồi buông tay không hiểu nguyên do và cũng không phân biệt được ai vì trời tối thui.” Có thể một vài quân nhân xấu số nào đó bị đuối sức buông tay hay có thể bị cá sấu đói ăn thịt chăng! Chỉ một trong hai điều đó hay cả hai! Thật đáng thương.
Trung Tá Phạm Ðức Dư xuất thân từ Sĩ Quan Tài Chánh, làm Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Lâm Ðồng từ khi còn Đại Úy cho đến khi chuyển qua làm Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức gần một tháng thôi (tôi xử lý thường vụ chức vụ này trước khi ông đến). Trung Tá Dư đã lớn tuổi, chưa quen lội hành quân, thành ra ông đã để tôi điều động tất cả đòan quân từ lúc bắt đầu di chuyển. Và sau mấy ngày vất vả trong rừng, Trung Tá Dư bị mệt xỉu khi đòan quân vừa tới xã Tân Rai (Lâm Ðồng) và được một lính nghĩa quân xã này (đệ tử cũ) đưa về nhà riêng của ông tại quận Bảo Lộc chăm sóc. Từ đó tôi không còn gặp ông.
Sau đó Bộ Chỉ Huy Nhẹ chúng tôi được Đại Tá Nghìn cho trực thăng đón về tỉnh. Riêng Đại Úy Ngô Văn Nhị vẫn tiếp tục chỉ huy cánh quân về thẳng thị xã Bảo Lộc. Đến phi trường Bảo Lộc trời đã xế chiều. Thời tiết mát dịu với những cơn gió hiu hiu thổi qua mang theo mùi hương thơm ngào ngạt từ các cánh đồng trà vừa mới đâm bông đầy hương sắc. Tình hình rất yên tĩnh, chợ phố sinh hoạt bình thường, chỉ nghe lai rai những tiếng đạn đại bác của ta từ xa dội lại, có thể đang yểm trợ cho một tiền đồn nào đó đang bị địch tấn công. Chúng tôi yên tâm như không có gì xảy ra, thong thả dùng một bữa cơm chiều no nê với lẩu canh chua cá bông lau nóng bỏng, dĩa thịt kho tàu kèm theo ít rau chua thật ngon miệng, bù đắp lại phần nào những ngày đói khát hiểm nguy băng rừng vượt suối. Với tình hình còn sáng sủa đó, sau khi dùng cơm xong chúng tôi vào đánh một giấc ngon lành đến sáng như chưa bao giờ có. Sáng ra, Đại Úy Nguyễn Duy Huynh, tôi và các quân nhân thuộc cấp ra ăn sáng tại một quán xập xệ ngoài chợ. Tứ bề yên tĩnh không nghe một tiếng súng nào nổ cả. Dự định ăn xong sẽ dạo phố kiếm đôi giày nhà binh khác thay thế cho đôi giày Mỹ lội mấy ngày nay đã bị há mỏ rồi. Nào ngờ, đang ăn ngon miệng bà chủ quán bỗng nói, “Xe tăng Việt Cộng vào thành phố từ hồi hôm đến giờ, sao mấy ông còn ngồi đây?” “Vậy hả! Bà nói đùa hay nói thật đó?” Tôi hỏi lại bà chủ quán. “Ai dám đùa với mấy ông chuyện quan trọng như vậy.” Bà chủ nói tiếp.
Nghe xong, tôi vẫn bình tĩnh. Tính tiền xong (không thuộc loại cao lâu ăn quỵt, thổ đĩ chơi lường), vội rời quán. May thay lúc đó có một chiếc xe “Jeep” của toán Liên Lạc Không Quân (ALO) thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng trờ tới, trong xe chỉ có một tài xế thôi. Đại Úy Huynh là bạn của thầy anh tài xế này từ lâu nên chận lại hỏi, “Thầy mầy đâu rồi?” “Dạ, ổng bay khi hôm rồi.” Người tài xế trả lờì. “Vậy mầy theo tao,” Đại Úy Huynh nói như ra lệnh. Anh tài xế bước ra sau nhường tay lái cho tôi, Huynh ngồi ghế bên cạnh, các quân nhân còn lại ngồi hết phía sau. Tôi trực chỉ ra phi trường Bảo Lộc cách đó không xa vì lính Quảng Đức về tập trung nơi đây từ tối qua đến giờ. Vừa đến cổng phi trường, tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy lính Lâm Ðồng từ trong phi trường túa ra. Họ nói tăng Việt Cộng tới đầu phi đạo rồi, lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong bảo họ về Ðà Lạt. Tôi chưa tin vì tình hình còn yên lặng quá, chỉ thấy phe ta ùa ra ngày càng đông mà chả nghe tiếng “xe tăng xe tiết” gì cả.
Ðang do dự, bỗng Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn từ bên kia máy PRC25 rủ rê tôi, “Mầy đến đâu rồi, đến quận ăn cơm rồi tử thủ với tao.” Tôi trả lời nửa đùa nửa thật, “Mầy lạnh cẳng rồi hay sao rủ tao, mầy hãy chuẩn bị heo gà nhiều đi, Cậu sẽ đến ngay.” Thế là tôi lái xe hướng về quận Di Linh (Di Linh nằm khoảng giữa Bảo Lộc và Ðà Lạt). Xe đang phon phon trên đường nhựa, bỗng lệnh của Đại Tá Nghìn từ trực thăng bảo tôi, “Sao bây giờ anh mới mở máy?” Tôi chưa kịp trả lời, Đại Tá ra lệnh tiếp, “Anh phải tập trung các đơn vị của mình vào phòng thủ với quận Di Linh.” Nhận được lệnh trên, tôi cố lái xe nhanh hơn (thua Cao Bồi một xíu thôi, nếu chậm các xe lính phía trước vọt hết sao!), qua mặt một số xe chở lính đằng trước rồi thắng gấp giữa đường và xuống xe bắt đầu chận các xe chở lính lại.
Chiếc xe đầu tiên tôi chận lại là lính thuộc Tiểu Khu Lâm Ðồng. Họ thấy tôi mang hia đội mão trông oai vệ chứ chưa biết tôi là ai nên còn cự nự chưa muốn xuống xe; viện cớ lệnh Trung Tá Phong bảo họ về Ðà Lạt. Nói vậy chứ cuối cùng thấy gương mặt tôi có chút cô hồn vương vấn nên họ đành xuống (không phải hiền lành như nai tơ khi gặp các cô đâu). Chỉ có lính Quảng Ðức khi thấy tôi ra hiệu tự động xuống xe. Bố trí quân tạm xong, tôi và Huynh từ từ vào gặp Quận Trưởng Ấn. Vừa đi vừa mừng thầm “trong hòan cảnh này hai thằng cùng khóa, chiến đấu bên nhau càng vững tâm hơn.” Tại quận, tình cờ gặp Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong rời Lâm Ðồng đến đây từ bao giờ. Tôi chỉ nghe tên ông thôi, chứ đây là lần đầu tiên được gặp. Tôi chào và trình Trung Tá Phong về ý định phòng thủ của Ðại Tá Nghìn. Vừa nghe xong ông hỏi tôi:
-Anh đảm nhận chức vụ gì bên Tiểu Khu Quảng Ðức?
-Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân TK/QÐ, tôi trả lời.
-Anh có quân đây không?
-Dạ có, đang bố trí ngòai kia, tôi lại đáp.
-Tỉnh trưởng anh đang ở đâu? Ông lại hỏi tiếp.
-Đang bay trên vùng để hướng dẫn các cánh quân còn kẹt trong rừng, tôi lại tiếp như vậy.

Không cần suy nghĩ Trung Tá Vương Ðăng Phong nói, “Tình hình như thế này, tỉnh trưởng anh có máy bay, có chuyện gì ông ta bay đi, còn tôi với anh ... thì sao?” Không cần tôi có ý kiến, ông tiếp, “Vậy anh muốn ở lại thì ở, tôi đi.” Nói xong, ông ra lệnh Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn nhổ ăng ten dù (antenna 292) và chuẩn bị di chuyển. Trầm ngâm một lát, tôi báo cáo Đại Tá Nghìn quyết định của Trung Tá Phong như vậy. Im lặng một hồi lâu, Đại Tá Nghìn nói, “Thôi, ai sao mình vậy!!!”
Suy nghĩ một lúc không tìm ra kế họach nào khác, chúng tôi âm thầm rời quận không buồn nói câu nào từ giã Ấn. “Cả đoàn quân ra sau bị kẹt hết rồi,” tôi thầm nghĩ như vậy. Ðứng trước đàn em, thuộc cấp đang bố trí chờ lệnh, tôi chậm rãi nói trong nghẹn ngào, “Thôi…các anh tìm mọi phương tiện… về Ðà Lạt.”

Trở lại Ðà Lạt


Tới cầu Ðại Ninh trời vừa xế bóng, thấy Trung Sĩ Vũ Nguyên Cường đang đứng xớ rớ cạnh hai chiếc xe thiết giáp V100 của Tiểu Khu Lâm Ðồng. Anh cho biết hai chiếc xe V100 được tăng cường giữ cầu Ðại Ninh mấy ngày nay và Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong đã qua cầu rồi. Lúc bấy giờ, Đại Úy Ngô Xuân Diên, Yếu Khu Trưởng khu cầu Ðại Ninh, đứng đầu thành cầu chuyển lệnh trên, “Quân Quảng Ðức được qua cầu còn quân Lâm Ðồng chưa thấy địch đã bỏ chạy phải ở lại chiến đấu.” Dù không bị ràng buộc bởi lệnh trên nhưng chúng tôi quanh quẩn nơi đó nửa giờ sau mới bắt đầu về Ðà Lạt.
Ðã lâu lắm rồi tôi mới trở lại xứ sương mù Ðà Lạt; quanh năm thời tiết mát lạnh rất thích hợp với bao loài hoa quý kể cả loài “Hoa Biết Yêu.” Ðà Lạt, nơi có Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam thân yêu đã từng một thời nổi tiếng đẹp và lớn nhất Ðông Nam Á (trước năm1975). Ở đó tôi được mặc vào người bộ đồ lính đầu đời, được huấn luyện từ lúc chập chững bước vào đời binh nghiệp đầy gian lao nguy hiểm, bỏ lại sau nếp sống thư sinh nơi Sài Gòn hoa lệ, và ở đó tôi vào đời với một niềm tự hào mãnh liệt, một tương lai huy hòang đầy hứa hẹn của trai thời lọan như ta từng học:
“Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Ðông, Ðông tĩnh; lên Đoài, Đoài yên.”
Ðà Lạt chiều Xuân trời man mác lạnh, thỉnh thoảng từng cơn gió nhẹ thổi qua làm bay bay những mái tóc bồng bềnh của các nàng kiều nữ cao nguyên quanh năm môi thắm má hồng, đang rảo bước trên các con đường đồi thoai thoải quanh co. Hình ảnh gợi tình đó hôm nay hơi vắng.
Chung quanh cái hồ nổi tiếng thơ mộng ngàn đời mang tên nữ sĩ tài hoa đầy nhựa sống, Hồ Xuân Hương, hằng ngày thường đầy ắp nam thanh nữ tú, những cặp tình nhân, những đôi uyên ương vừa mới kết tóc se duyên, đến đây tâm sự, tay trong tay, cặp từng cặp, dìu nhau theo nhịp đập con tim, nay vắng vẻ làm sao!!! Hàng hoa Anh Đào tươi mát rộ nở trong khí tiết xuân đang khoe sắc trắng hồng nằm ngạo nghễ bên lề đường từ rạp Hòa Bình đến bờ Hồ, chắc không mấy ai còn đủ tinh thần chiêm ngưỡng hay ca tụng vẻ đẹp kiêu sa đài các của nó.
Rất tiếc, thời gian và hòan cảnh không cho phép đến thăm lại những thắng cảnh tươi mát bốn mùa như Thung Lũng Tình Yêu, Hồ Than Thở, Thác Prenne, Thác Cam Ly, Trại Hầm, Chùa Sư Nữ, vân vân và vân vân; những nơi đã từng có ít nhiều vương vấn bao kỷ niệm vui buồn khắc sâu trong tiềm thức ở tuổi đôi mươi, lúc còn trong quân trường Ðà Lạt, nhất là vào những dịp dạo “phố Hoa Ðào” cuối tuần. Còn nhớ lúc bấy giờ, có rất nhiều người đẹp từ các nơi, thỉnh thoảng trong đám xuân xanh ấy, cũng có mấy Nàng trông khá quen, thuộc dạng Hoa Khôi Xứ Mắm Phan Thành (như H.M,H.U,H.L., v. . .v. . .) vào thăm các Chàng Võ Bị Hào Hoa. Những đoạn phim tình cảm tuy ngắn ngủi nhưng mang nhiều kỷ niệm xa xưa đó hiện ra trong tiềm thức tôi không lâu, rồi tan biến nhường chỗ cho nỗi âu lo của những ngày hiểm nguy sắp đến, như cụ Nguyễn Du đã viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

Thật vậy, Ðà Lạt đang ngột ngạt trong không khí chiến tranh, những người giàu có và các sinh viên từ xa đến học hầu như di tản gần hết, phố xá mở cửa lưa thưa, người bộ hành vội vã trên đường về, thỉnh thoảng đó đây những chiếc xe đầy lính lui tới tuần tra trên đường phố trong thế sẵn sàng.
Qua một đêm ngon giấc trên nệm ấm giường êm tại khách sạn La Palace bên cạnh bờ hồ Xuân Hương; sáng hôm sau điểm tâm ở cà phê Tùng xong, tôi bay về Lâm Ðồng hướng dẫn các cánh quân còn trong rừng ra.
Bầu trời Lâm Ðồng hôm nay rất quang đãng, tầm nhìn rất tốt. Từ trực thăng nhìn xuống thấy đòan người đang hối hả vừa đi vừa chạy trên đường hướng về Ðà Lạt. Trong quận Di Linh lóang thóang một ít bóng người ăn mặc hỗn tạp ra vào. Trực thăng xuống thấp hơn các bóng người này trốn mất. Ðoán chắc đó không phải là quân ta mà cũng không phải là dân hôi của, thành ra khi liên lạc được với các cánh quân bạn, tôi hướng dẫn họ đi về hướng cầu Ðại Ninh an tòan hơn.
Khi biết tôi đang bay trong vùng Bảo Lộc, từ cánh quân dưới đất Thiếu Tá Nguyễn Khắc Hiếu (Khóa 19 Đà Lạt) cho biết đã bị sốt rét mấy ngày nay không thể tiếp tục đi được, yêu cầu tôi bốc dùm anh, đồng thời cho xin mấy cục “pin PRC 25.” Anh cho biết đã giao quyền chỉ huy lại cho Ðại Úy Tích, sĩ quan phụ tá của anh rồi. Quan sát một lúc thấy bãi đáp khá trống trải, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Huỳnh Chí Thành hay Trần Hồi, Phi Đòan 215 Trực Thăng) đáp cạnh quả đạn khói màu vừa đánh dấu bãỉ đáp. Thiếu Tá Hiếu vào xong, trực thăng cất cánh lên ngay lại bị mấy loạt súng AK47 bắn theo tới tấp. Lại một phen lên ruột vì địch bắn ta mà ta không thấy hướng địch. Nếu bắn lại không trúng địch mà trúng quân bạn lại càng ân hận, vì vậy phi cơ chỉ tiếp tục bay. Bình phi xong trực thăng bay thêm nhiều vòng nữa hầu tìm thêm có cánh quân nào cần giúp không, nhưng vì Thiếu Tá Hiếu quá mệt chúng tôi phải rời vùng trở về Ðà Lạt (anh Hiếu qua Mỹ dịp tháng 4/75 tại Nam Cali và chết vì bệnh năm 2003. Một niên đệ thân tình ra đi!) Và ngày hôm sau Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu chúng tôi đi đường bộ về Nha Trang.
Sở dĩ phải quan sát kỹ quận Di Linh như đã nói trên vì tôi biết hôm qua, sau khi quận này bỏ ngỏ, Tiểu Đòan 202 ÐPQ/Tuyên Ðức đóng tại cầu Ðại Ninh (Di Linh cách cầu Đại Ninh chừng 60 cây số) được lệnh tái chiếm quận này mà không biết giờ đó đã vào được chưa!
Sau này mới biết địch đã chiếm quận rồi như đã quan sát thấy, vì chính Trung Úy Nguyễn Thắng Lợi (Sĩ Quan Quân Số kiêm xử lý thường vụ Trưởng Ban 3 Tiểu Đòan 202ÐPQ) xác nhận. Anh cũng cho biết thêm, trên đường tiến đến quận Di Linh, tiểu đòan anh đánh bắt được chiếc “xe be” trang bị súng 57 ly không giật, giả làm tăng T54 của địch để hù ta; nhưng tiểu đòan chưa chiếm lại được quận; một phần vì các nút chận của địch khá mạnh, một phần vì áp lực tâm lý rút lui của quân bạn lúc đó. Xin nói thêm, Tiểu Đòan 202ÐPQ/TÐ là một đơn vị đánh giặc nổi tiếng ở Quân Khu II, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Xuân Phong. Anh Phong là một vị chỉ huy dũng cảm và lanh lợi, đã từng hai lần vượt ngục nhưng không thóat nổi để rồi chịu nhiều trận đòn thù trối chết. Tôi từng ở tù chung với anh tại trại giam huyện Tân Kỳ tỉnh Nghệ Tĩnh vào thập niên 1980. Lúc ở tù anh thuộc thành phần cứng đầu, làm việc tà tà cho qua ngày mà mình thường dùng chữ “cà nhỏng chống xăm lăng” chứ không phải thuộc loại “lao động là vinh quang” như Việt Cộng dụ khị.

Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân

Lâm Ðồng mất không chỉ làm cho lực lượng TK/QÐ chới với mà còn làm cho LÐ24 BÐQ một phen xính xáng. Xin mở dấu ngoặc ở đây để giới thiệu sơ qua về LÐ24 BÐQ. Ðứng đầu tàu là Trung Tá Hồng Kim Thanh, Liên Đoàn Phó là Trung Tá Ðào Ðức Châu. Liên đoàn gồm ba tiểu đoàn sau:
-Thiếu Tá Trần Ðình Ðàng (Khóa 15 Ðà Lạt) Tiểu Đòan Trưởng Tiểu Đoàn 63 (TÐ63BÐQ).
-Thiếu Tá Hồng Ðình Mẫn (Khóa 2 Ðồng Ðế Nha Trang) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đòan 81.
-Thiếu Tá Vương Mộng Long (Khóa 20 Ðà Lạt), Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 (TÐ82BÐQ).
-Pháo Đội PB 105 ly của Đại Úy Giang yểm trợ trực tiếp cho Liên Đoàn này.

Như phần trên đã nói, LÐ24 BÐQ được tăng cường cho TK/QÐ, nhiệm vụ chính bảo vệ quận Kiến Ðức. Sau khi rời phòng họp TK/QÐ, Trung Tá Hồng Kim Thanh về lệnh cho các đơn vị trực thuộc thi hành kế hoạch như đã định (không phải TK/QÐ bỏ quên LĐ24BÐQ).
Khi Liên Đoàn còn ở điểm vượt sông Kinh Ðà, quân ta vô ý để lựu đạn nổ khiến Trung Tá Liên Đoàn Trưởng và Trung Úy Minh, Sĩ Quan Truyền Tin LÐ và vài binh sĩ bị thương phải chờ tải thương. Ngày hôm sau Thiếu Tá Hồng Ðình Mẫn cũng được rời Liên Đoànvì cơn bệnh sốt rét cấp tính và hai ngày sau nữa Trung Tá Ðào Ðức Châu cáo bệnh cũng được bốc đi.
Liên Đoàn như rắn mất đầu cụt đuôi (chữ của Thiếu Tá Trần Ðình Ðàng xác nhận tình trạng LÐ lúc đó). Tuy là khóa đàn em, kém thâm niên cấp bậc và quân vụ so với các vị tiểu đoàn trưởng khác nhưng nhờ tài chỉ huy, lanh lợi, gan dạ chịu đánh đấm, Thiếu Tá Vương Mộng Long được cấp trên chỉ định chỉ huy liên đoàn này từ lúc đó. Vì phải di chuyển theo phương giác từ lại xuyên qua rừng thông rậm rạp và chờ tải thương nhiều lần nên khi ra tới Bảo Lộc thấy cờ Việt Cộng đã “cấm dùi” từ hồi nào, liên đoàn đành phải chuyển hướng về Ðức Trọng, rồi Thiện Giáo (Bình Thuận).
Phải lòng vòng trong rừng mất nhiều ngày, quần áo tả tơi, lương thực khô cạn. Mãi đến ngày 5 tháng 4 năm 1975 từ chiếc L19 của Quân Đoàn IÌI, Trung Tá BÐQ Nguyễn Khoa Lộc (Khóa 18 Ðà Lạt) mới liên lạc được với LÐ 24 BÐQ và khẩn cấp xin trực thăng bốc đơn vị này ra. Sau mấy ngày dưỡng thương bình phục, Trung Tá Hồng Kim Thanh trở lại nhiệm vụ lần lượt trực thăng vận liên đoàn về Phan Thiết an toàn.

Tiểu Đoàn 82 BÐQ của Thiếu Tá Vương Mộng Long được xem như đơn vị chủ lực và cũng là đứa con cưng của liên đoàn được không vận ra trước tiên tại phi trường Phan Thiêt, lấy xăng rồi tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Long Khánh trong ngày 6/4/75. Tại đây tiểu đoàn này đã đánh một trận oai hùng với Việt Cộng mà chúng ta biết được lúc còn trong tù hay hải ngoại sau này. Nhưng với tình hình đất nước lúc bấy giờ, dù gan dạ và tài giỏi đến đâu cũng khó lòng chận đứng được sức tiến của Cộng Quân. Ðịch quân bị dội lại vì ăn phải hai quả bom tinh khôn (C.P.U) bất đắc dĩ của ta mà thôi.
Vì không đủ trực thăng bốc liên đoàn ra cùng ngày nên hai tiểu đoàn 63 và 81 được chuyển ra sau bảo vệ phi trường Phan Thiết. Sau đó không chịu nổi áp lực địch, hai tiểu đoàn này rút ra hướng biển để được trực thăng vận về Hàm Tân. Dù không được đi suông sẻ như Tiểu Khu Quảng Đức, Liên Đoàn 24BÐQ phải trải qua nhiều ngày đói rách tả tơi, băng rừng vượt suốt hiểm nguy, song vẫn duy trì được kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao. Chính Tiểu Đoàn 82 BĐQ đã chứng minh điều đó qua trận đánh với Việt Cộng tại Long Khánh trong những ngày cuối cùng. Họ chỉ buông súng đầu hàng vào giờ chót vì lệnh thượng cấp. Thật đáng ca ngợi thay!

Nhân đây tôi xin được giới thiệu về Thiếu Tá BÐQ Vương Mộng Long, cựu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 BÐQ. Năm 1972-1973, tôi thường hành quân với tư cách Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Bộ Chỉ Huy BÐQ/QKII dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Duy Tất, lúc đó anh Vương Mộng Long là Trưởng Phòng 2 của BÐQ Quân Khu ÌI. Anh đã từng chỉ huy quân báo nhảy từng toán nhỏ vào sào huyệt địch, đôi lúc anh nhảy cùng với họ để làm gương và tìm những tin tức sốt dẻo. Ngòai trận Long Khánh nói trên, nếu ai đã từng ở Pleiku tháng chín năm 1974 chắc không quên mình đã từng xuống đường chào mừng Tiểu Đoàn 82 BÐQ của Thiếu Tá Vương Mộng Long về thành phố khao quân sau trận tử thủ căn cứ Pleime. Tiểu đoàn anh đã đánh tan Trung Đòan 48 thuộc Sư Đòan 320 Cộng Sản Bắc Việt khi họ thí mạng cùi tấn cơng căn cứ này. Khi bị tù ngòai Bắc, với sự can đảm có thừa, anh đã hai lần vượt ngục trốn lâu cả tháng trời nhưng cuối cùng vẫn không vượt khỏi gông cùm Cộng Sản. Mỗi lần bị bắt lại đều được “đấm bóp” kỹ, bị “bề hội đồng” xém chết. Dở mũ xin chào lòng dũng cảm đầy gan dạ của anh, Thiếu Tá Vương Mộng Long, khóa 20 Trường Võ Bị Ðà Lạt, “Con Cọp Ðộc” của Biệt Ðộng Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ðạn khói pháo binh trị tăng

Nói về xe tăng địch, tôi xin trình bày một sự việc dù muộn màng nhưng mục đích không phải để khoe mình, còn nói để lấy kinh nghiệm thì trễ rồi không còn nữa.
Giữa tháng 12/1973 tại quận Kiến Ðức tỉnh Quảng Ðức (nay là Ðắc Nông), sau khi chiếm đồn Buprang địch thừa thắng xông lên, tăng T54 tiếp tục tiến chiếm đồn Bu-Bơng gần đó chừng hai cây số đường chim bay. Trung Úy Nguyễn Văn Năm (Bến Tre), Trung Đội Trưởng PB 105 ly tại đồn Bu Bơng dùng đạn nổ bắn trúng tăng địch nhưng nó vẫn lù lù tiến về anh; anh báo tôi như vậy. Từ Bộ Chỉ Huy Nhẹ Hành Quân của QÐII tại Tiểu Khu Quảng Đức, tôi cho lệnh anh nạp đạn khói vào bắn (cách xe địch khoảng hai cây số).
Thế rồi, quả đạn khói thứ nhất đi, một chiếc tăng địch bị khựng lại; quả đạn khói thứ hai đi, một chiếc tăng nữa đứng yên và các chiếc tăng còn lại đâm đầu chạy trốn vào rừng gần đó, đơn vị anh reo hò mừng rỡ. Khi nghe anh báo cáo về Trung Tâm Hành Quân đã hạ được hai xe tăng địch (lần đầu tiên PB hạ xe tăng địch bằng đạn khói), chúng tôi rất vui mừng và thấy “cặp lon đại uý sắp lắp lánh trên cổ áo anh.”
Nhưng... tiếc thay, đơn vị bảo vệ trung đội PB của anh bị đánh te tua không đủ khả năng chống lại địch buộc anh phải rút, nếu không họ bỏ lại (pháo binh không trực tiếp chiến đấu một mình ngoài trường hợp bất khả kháng). Vì vậy anh đành ngậm ngùi nuối tiếc phá súng tháp tùng theo họ. Nửa giờ sau các anh không quân vào vùng lại báo cáo hạ được hai tăng địch!!! (trễ rồi anh bạn, nhưng dù sao cũng cám ơn anh đã xác nhận có tăng địch CHẾT tại trận)
Thoáng nghĩ của tôi khi cho bắn đạn khói lúc đó là vì trong đạn khói có chất lân tinh (phốt pho); khi đạn trúng xe chất lân tinh tỏa ra tứ hướng trúng da thịt người, cháy âm ỉ không chịu nổi hoặc nếu trúng đứt xích, xe sẽ không sử dụng được. Sách vở cả Mỹ lẫn Việt không có dạy đạn khói pháo binh hạ tăng địch. Tôi cho bắn đạn khói vì vài thóang nghĩ nói trên, nào ngờ đạn khói lại hiệu quả như vậy. Rất tiếc lực lượng ta lúc bấy giờ không tái chiếm đồn Buprang nên không thể khai thác được hiệu quả thật sự của đạn khói như thế nào ngoài việc làm xe tăng địch không sử dụng được như trên.
Vì trận này quân ta tổn thất khá nặng (mất đồn Buprang) ngoại trừ pháo binh hạ được hai chiếc tăng địch nên thành tich của Trung Úy Nguyễn Văn Năm không được cấp trên lưu ý. Anh chỉ được thượng cấp cho đi du lịch Ðài Loan năm 1974 trong đòan “Chiến Sĩ Xuất Sắc” qua sự giới thiệu của tôi.

Ðầu tháng 1/1974, trước mặt Trung Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Lực VNCH, tôi xác nhận “đạn khói pháo binh trị được xe tăng” nên sau đó Bộ Chỉ Huy Pháo Binh có ra văn thư về việc phải sử dụng đạn khói pháo binh bắn tăng địch, nhưng có lẽ văn thư này không được phổ biến rộng rãi cho tòan thể Quân Lực VNCH nên quân ta rất còn e sợ khi nghe có tăng địch xuất hiện. Ðã e sợ thì không còn tinh thần chiến đấu. Giới đá gà gọi những con gà mới thấy mặt đối phương đã bỏ chạy là gà rót. Thất bại từ tâm lý đó!!!

Về vùng cát trắng

Kẻ viết bài này xin được nói rõ hơn một chút về mình sau khi rời Đà Lạt. Chúng tôi đến Nha Trang trời vừa chạng vạng, đường xá tấp nập xe chạy, người đi, hầu hết là quân đội và dân chúng chạy giặc từ Cao Nguyên về hoặc từ vùng ngòai vào. Tôi lê la ra quán cơm Viêt Nam nằm sát bờ biển, mục đích không phải để nhìn trăng “di chuyển qua các làn mây” (lúc nhỏ tôi tưởng như vậy) mà cũng không phải để ngắm dáng Chị Hằng phản chiếu dưới mặt nước hay nghe những tiếng sóng vỗ rì rào pha lẫn những tiếng rao “đậu hũ nóng hôn” của các cô bán tàu hũ về đêm, mà chỉ muốn cho tâm hồn bớt căng thẳng và kiếm chút gì bỏ bụng sau một ngày mệt mỏi. Tình cờ gặp hai người bạn cùng khóa năm xưa (Thiếu Tá Phạm Văn Trung, thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang và Thiếu Tá Huỳnh Văn Giai, Trưởng Phòng Tuyển Mộ Nhập Ngũ Khánh Hòa). Gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng nụ cười không trọn vẹn trên vành môi vì sự bi thảm của đất nước hiện tại. Như đàn chim sau khi đủ lông đủ cánh phải lìa tổ ấm tung bay khắp bốn phương trời, chúng tôi sau hai năm tròn dùi mài văn võ, phải rời mái trường mẹ thân yêu cuối năm 1963 về phục vụ bốn vùng chiến thuật, nay tình cờ hội ngộ trong hòan cảnh éo le này. Tuy nhiên dù hòan cảnh nào chúng tôi cũng không quên nhắc nhở những kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan, nay thằng nào sống chết ra sao và cũng không quên mời nhau “năm mươi phần trăm em ơi” để vơi đi phần nào nỗi lo hiện tại và cũng làm tăng thêm niềm vui của sư sống. Đang thao thao bất tuyệt những chuyện đánh nhau sống chết, bỗng Phạm Văn Trung hỏi tôi, “Vợ con mầy đâu rồi, sẵn sàng sáng mai tao gửi máy bay về Sài Gòn cho sớm?” Trong hòan cảnh này được người bạn nhã ý vậy thật là quá quý. Riêng vợ chồng Giai đã biết gia đình tôi nhiều trong những lần đi học hay nghỉ mát ở Nha Trang rồi, còn Trung chỉ mới gặp lần đầu nên tôi cám ơn và giải thích lòng vòng một tí cho anh biết. “Cám ơn hảo ý của mầy, vợ tao đang làm tại Tổng Cục Du Lịch ở Sài Gòn. Riêng hai đứa con vừa được cậu nó đưa lên thăm tao. Thấy tình hình không yên, tao gửi tụi nó theo trực thăng của cơ quan DAO (cố vấn tiểu khu) về nhà ba má Trần Thiện Thanh ở Bảo Lộc để nhờ hai ông bà lo xe cho chúng về Sài Gòn cách nay gần mươi ngày, nếu trễ tụi nó bị lội hành quân với tao rồi.”

Hôm nay tình hình quân sự tại đèo Khánh Dương hơi bi quan, quân Dù đóng tại đèo Khánh Dương có vẻ muốn nhúc nhích. Dù trời chưa khuya nhưng chúng tôi vẫn ý thức được “vui chơi không quên bổn phận.” Khoảng chín giờ chúng tôi vội chia tay nhau sớm về lo việc mình. Riêng phần tôi trưa hôm sau vào trình diện Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Ðoàn II (trong Nha Trang) nhận nhiệm vụ mới. Hôm ấy, trước khi vào trình diện BCH/PB/QÐII, Đại Tá Nghìn dặn tôi, “Anh vào xem thấy nhận được thì nên nhận, ngược lại thì ra đây bay trở lại Ðà Lạt với tôi nhận nhiệm vụ mới, tôi chỉ chờ anh một tiếng đồng hồ thôi.”
Trình diện đúng giờ hẹn, Đại Tá Phan Ðình Tùng, Chỉ Huy Phó Pháo Binh QLVNCH và Trung Tá Phạm Hữu Chương rất vui vẻ đề nghị tôi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 69PB thay thế Trung Tá Chương (tôi từng làm phó cho ông tại tiểu đòan này năm 1972). Trung tá Chương đưa tôi đi quan sát hậu trạm tạm thời của tiểu đòan 69PB trú trong sân bay Nha Trang. Trên đường đi, Trung Tá Chương cũng khuyến khích tôi, “Biết khả năng và thâm niên cấp bậc của anh nên đại tá chỉ định thẳng anh, đây là cơ hội bằng vàng hiếm có để bắt cái lon trung tá chứ binh chủng mình khó lên lắm.” Nghe hai tiếng trung tá cũng ham nhưng mà… qua nửa giờ đồng hồ gọi là “thăm lính cho biết sự tình” nhận thấy tiểu đòan di tản từ Pleiku về đây có vẻ bi thảm quá, súng ống chưa trang bị kịp. Nếu tôi chấp thuận phải đem đơn vị vào căn cứ Ðồng Bà Thìn (giữa đường Nha Trang-Cam Ranh) huấn luyện, trang bị lại. Lâu quá!
Nhận thấy nhiệm vụ quá nặng nề khó lòng thực hiện được trong hòan cảnh bi đát này, tôi từ chối. Ra đến nơi hẹn, Đại Tá Nghìn chờ không được đã đi Đà Lạt rồi; thấy trễ tôi (tài xế và tôi) nghỉ qua đêm chờ sáng mai đi Ðà Lạt.

Sáng hôm sau, trên đường rời Nha Trang, người và xe cộ hỗn độn chật ních, hầu như không còn trật tự lưu thông nữa. Chúng tôi lách đi rất khó khăn mới tới được Phan Rang. Gặp bà vợ Trần Công Triệt đang lăng xăng với năm đứa con dại muốn tìm cách vào phi trường về Sài Gòn. Riêng Đại Úy Triệt đang chỉ huy đại đội trấn thủ trên đập Đa Nhim. Tôi đưa sáu mẹ con bà Triệt (đầy xe “jeep” 8 người) vào phi trường và được Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt (Khóa 18 Đà Lạt) và Thiếu Tá Trương Khương (Khóa 19 Đà Lạt) là Không Đoàn Trưởng và Không Đoàn Phó phòng thủ đưa lên phi cơ về Sàì Gòn mấy phút sau đó. Phần tôi tiếp tục hướng về Đà Lạt. Vừa qua khỏi đèo Sông Pha, bị đoàn xe từ Ðà Lạt đổ xuống không thể nào tiếp tục được. Họ cho biết Đà Lạt đã bỏ ngỏ. Tôi đành quay lại phi trường Phan Rang (2/4/75?). Tối đó quân Dù đã nhớm khỏi đèo Khánh Dương và Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn bắt đầu rút. Tướng Phú và Đại Tá Lý Bá Phẩm (Tỉnh Trưởng Nha Trang cũng có mặt tại phi trường Phan Rang đêm đó). Thấy tôi ở đó vài ngày chẳng có nhiệm vụ gì, Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt (bạn cùng Khóa 18 Đà Lạt) và Thiếu Tá Trương Khương giúp tôi về Sàị Gòn. Tôi trình diện Bộ Chỉ Huy Pháo Binh QLVNCH và nhận lệnh tăng cường cho PB Quân Đoàn III phòng thủ tại Long Thành cho đến ngày mất nước rồi khăn gói đi tù từ Nam ra Bắc. Sang Mỹ theo diện “Ho Lao” (H.O) năm 1991.

Kết luận


Ðó là một số hiểu biết trong phạm vi trách nhiệm hạn hẹp của tôi tại một vùng Cao Nguyên hẻo lánh trong giai đoạn đen tối nhục nhã của lịch sử nước nhà. Cuộc chiến quân sự đã qua dù kết thúc không theo chiều hướng mong đợi của ta. Ta không thể hoàn toàn trách Mỹ vì họ bỏ rơi đồng minh; mà không khe khắt chính mình; đặc biệt những người từng nắm chức vụ chỉ huy cao trước ngày có hiệp định Paris 1973. Ông bà ta từng nói, “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.” (Trách mình trước khi trách người).

Cuộc chiến đã qua, những đau thương dân tộc từ đó vẫn còn tồn tại. Hình ảnh của những người cùng một chiến tuyến, thượng cấp, thuộc cấp, bạn bè phơi thây nơi trận địa, những người dân vô tội nằm chết đó đây, những người chết do bị hành hạ đói khát trong lao tù Cộng Sản, trong rừng sâu hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do chưa phai mờ trong trí tôi. Có những người không chỉ chết một lần. Họ đã hy sinh để cho quê hương Việt Nam Tự Do, Dân Chủ, Hạnh Phúc, Phú Cường. Là Người Việt Quốc Gia, chúng ta không thể quên ơn Họ. Chúng ta hãy cùng thắp nén hương lòng nhớ đến Họ và cầu nguyện cho linh hồn Họ về nơi Họ muốn. Chúng ta cũng không quên ơn những “Quân, Cán, Chính” đã hy sinh đời trai trẻ của mình và đặc biệt không quên các Anh, Chú, Bác thương bệnh binh đang sống đói khổ nhục nhã nơi quê nhà, nơi vùng kinh tế mới xa xôi hẻo lánh nào đó.

Houston,Texas, Xuân 2005
TRẦN VĂN BƯỜNG
__________


LTS: Tác giả Trần Văn Bường sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận, cựu học sinh Trung Học Phan Bội Châu, Phan Thiết:
--Tốt nghiệp khóa 18 Sĩ Quan, trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và trường Pháo Binh Dục Mỹ,
--Ra trường phục vụ ngành Pháo Binh tại Sư Đoàn 9 Bộ Binh,
-- Vinh thăng đại úy từ tháng 1/1969,
--Từ tháng 11/71 – 8/72: Pháo đội trưởng thuộc Tiểu Đoàn 233 PB kiêm Sĩ Quan Liên Lạc tại Tiểu Khu Ninh Thuận,
--Tháng 7/72 vinh thăng đặc cách Thiếu tá tại Mặt Trận Chu Pao (Pleiku),
--Từ tháng 8/72 – 11/73: Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 69 PB tại Biển Hồ (Pleiku),
--Tháng 11/73 – 3/75: Chỉ huy trưởng Pháo Binh kiêm tham mưu phó Hành Quân tại Tiểu Khu Quảng Đức.

Sau tháng 5-1975, bị Việt Cộng đày đoạ nhiều năm tù, trong các trại giam từ Nam ra Bắc. Năm 1991 tới Mỹ qua diện H.O. và là hội trưởng Hội Thân Hữu Bình Thuận Hải Ngoại tại Houston (Texas) với một LÝ TƯỞNG CHỐNG CỘNG sắt đá.

No comments: