Thursday, April 30, 2009

THẢM CẢNH THUYỀN NHÂN TRONG TRẠI TỊ NẠN


Powerpoint: Hành Trình Đi Tìm Tự Do

http://www.doi-thoai.com/pictures/HanhTrinhDiTimTuDo_Lv.pps




Thảm cảnh thuyền nhân trong các trại tị nạn Hồng Kông
Phương Anh, phóng viên RFA
2009-04-29
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/BoatPeople-having-an-austere-live-in-Hongkong-refugees-camps-PAnh-04292009105117.html
Trong thời gian làn sóng vượt biên tìm tự do của người Việt lên cao, HongKong chính là nơi có số thuyền nhân Việt Nam đông nhất. Họ đã được chính quyền bản xứ đối xử ra sao? Cuộc sống của họ trong các trại tị nạn như thế nào?

Thuyền nhân được vớt từ những ghe thuyền nhỏ bé lên tàu lớn. Hình của UNHCR
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OneStoryaWeek/boat_people_exodus_the_base_of_oversea_Vietnamese_communities_part1_PAnh-04302008140035.html/080430-boatpeople%202_305.jpg

Trong một chương trình trước, qúi vị đã nghe một số người đã từng ở các trại tị nạn kể về đời sống của thuyền nhân trong thời gian trước và sau ngày đóng cửa.
Kỳ này, mời qúi vị nghe tiếp câu chuyện về đời sống thuyền nhân ở Hongkong, nơi mà đa số thuyền nhân là người miền Bắc. Cũng chính nơi đây, đã xảy ra rất nhiều thảm cảnh cũng chỉ vì sự bất đồng chính kiến.

Bên trong các trại cấm
Do sự cố tình làm ngơ của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, của chính quyền Hồng Kong, đã gây ra những cái chết đau thương của thuyền nhân Việt Nam và thậm chí, đến bây giờ, có người vẫn còn đang bị giam tù nơi miền đất ấy.

Sơ Christine Trương Mỹ Hạnh, thuộc dòng Chúa Chiên Lành, hiện là Giám Đốc Trung Tâm Phục Vụ Thanh Thiếu Niên và Gia Đình ở Atlanta, bang Georgia, Hoa Kỳ, người từng có mặt ở Hồng Kông để giúp các thuyền nhân Việt Nam ngay từ năm 1976 cho hay:
“Trại Hồng Kông bắt đầu từ năm 1976 vì có một số người đến đó, các nước cho định cư rất nhanh.
Đến năm 1979, thì chiếc tàu Cardilac, đi từ Nha Trang, Đà Nẵng, đa số là người Hoa, khi họ tới Hồng Kông thì chính phủ Hongkong không cho vào, họ phải chờ ở đó đến 4 tháng sau, và có một người cắt dây và chiếc tàu nặng tới 3.000 tấn từ từ chìm, chính phủ Hongkong mới mở cửa và bắt đầu cho phép người ta vào Caolun, và thành lập trại từ đó.
Nhưng sau 3 năm thì họ thấy nuôi những người này quá tốn kém và họ cho ra để đi làm.
Cũng trong thời gian này, chưa có luật lệ chặt chẽ, nên đã có những cuộc xô xát xảy ra giữa người Bắc và người Nam. Trong số đó, có những người đã chết chỉ vì cãi vã nhau.
Đến năm 1982 thì chính thức trại cấm bắt đầu. Lúc đó, chính phủ Hongkong không muốn cho người Việt Nam đến Hongkong nữa. Nhưng, người ta đến càng ngày càng đông, đến độ không có chỗ chưá và chính phủ phải mở tất cả nhà tù ra và luật của trại cấm là áp dụng giống như trại tù của Hongkong.
Mỗi ngày ăn hai bữa, người tị nạn không có tên, mà chỉ có số… Và những người tị nạn phải dồn ép sống chung với nhau. 3 người ngủ chung một giường, một giường có 3 tầng, sống trong những khu nhà tôn, rất nóng. Chung quanh là kẽm gai.
Buổi sáng, khi họ đánh thức dậy là người tị nạn phải dậy hết và hai tay để sau đầu. Khi người ta kiểm tra, phải đứng lên đọc số của mình bằng tiếng Quảng Đông. Có nhiều người lớn tuổi, không nhớ được số mà lại phải đọc bằng tiếng Quảng Đông, nên bị phạt, bị gậy batoong gõ lên đầu.
Ăn uống thì giành giựt nhau vì luật nhà tù nên không có chén dĩa, mà họ chỉ phát cho mỗi gia đình một cái thau, mỗi cá nhân một cái muỗng bằng nilon. Một hộ gia đình thì chỉ đi lãnh cơm trong cái thau và mọi người ngồi xuống dưới đất dùng cái thià của mình ăn.
Nhiều khi đi vào trại, tôi thấy bảy, tám cái đầu cúi xuống một cái thau, thấy rất đau lòng, giống như một con vật gì đó đang dành nhau để ăn.”


Chứng kiến sự đối xử rất tệ hại của chính quyền bản xứ với thuyền nhân Việt Nam, Sơ Mỹ Hạnh quyết tâm tranh đấu với các cơ quan chức năng để yêu cầu chính quyền phải thay đổi chính sách.
Trước sự đòi hỏi chính đáng, đến năm 1986, chính quyền Hong Kong phải nhượng bộ, bắt đầu cho phép các hội đòan quốc tế như World Relief, Save the Children… vào để giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam. Cuộc sống thuyền nhân cũng dễ thở hơn, được đối xử tử tế hơn.

Người tị nạn ở Hồng Kông chờ đi định cư. PHOTO by UNHCR
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/boat_people_exodus_the_base_of_oversea_Vietnamese_communities_part2_PAnh-05062008132530.html/080505-BoatPeople_hongKong_UNHCR.jpg

Thế nhưng, làn sóng người Việt tiếp tục đổ đến Hongkong. Và năm 1988, Hongkong bắt đầu có trại cấm để thực hiện chính sách thanh lọc. Một điều rất thương tâm tại các trại tị nạn ở Hồng Kong là có rất nhiều cảnh đánh nhau xảy ra giữa thuyền nhân miền Bắc và miền Nam.
Sơ Mỹ Hạnh kể tiếp:
“Tôi chứng kiến cảnh đánh nhau quá sức, Hongkong phải lấy trực thăng, đổ lính xuống để dẹp. Những cựu quân nhân của miền Nam gần như bị đánh rất nặng, có một số anh bị chết, bị cắt gân… có khoảng 6 anh, tôi đưa vào bệnh viện, bây giờ có hai anh bị tàn phế suốt đời.
Sau đó, người ta mới chuyển người miền Nam thì đi ở với người miền Nam, lúc trước là Nam Bắc sống chung. Nhưng mà đánh nhau thì chỉ thanh niên thôi, còn những ai có gia đình thì không. Một phần là do trại giam, vì người ta tù túng, suốt ngày cứ nằm dài chờ bữa ăn, năm này qua năm kia… nên khi nói chuyện với nhau, người miền Nam thì tức chế độ CS, chửi ông Hồ Chí Minh, thì những người miền Bắc lại thần thánh hoá ông Hồ Chí Minh, cho nên cãi vã.
Có em Lộc, người Nha Trang, vì chửi nhau như vậy mà giết một anh người miền Bắc và hiện nay vẫn ở tù ở Hongkong. Có nhiều chuyện nó đẩy đưa làm cho con người bí túng, sinh ra dễ cãi nhau. Luân lý và xã hội thì rất thấp vì cuộc sống chung chạ, không có ngày mai, người ta sống giống như trong một cái chuồng, sống lúc nhúc với nhau…”


Cưỡng bức hồi hương

Vào năm 1989, chính quyền Hồng Kông áp dụng cưỡng bức hồi hương. Lúc bấy giờ, cuộc sống của họ vô cùng khốn khổ. Ngòai chuyện phải lo chống lại sự bắt bớ của lính Hongkong, họ còn bị những thành phần du đãng trong trại, hay còn gọi là “đầu gấu” hà hiếp.
Cao Ủy Tị Nạn LHQ và chính quyền bản xứ đều nhắm mắt làm ngơ mặc cho bọn đầu gấu hoành hành, như lời chị Lý Hòang Phúc, hiện cư ngụ tại Atlanta, cựu thuyền nhân trại Chimawan, dành cho người miền Nam, cho hay:
“Chính phủ Hongkong dùng những đầu gấu cai trị mình, đời sống trong đó vừa hồi hộp, vừa bị sợ trả về VN, vừa bị đầu gấu ăn hiếp
Trại không hề có một tờ giấy, một cây viết, không có một cái gì hết. Tụi em phải chờ đến giờ xếp hàng lấy cơm, họ dán tờ giấy ở đó thì tụi em ráng giựt tờ giấy đó ra để viết vài chữ và tìm cách gửi ra ngoài.
Tụi em không hề được liên lạc với người ngoài. Một buổi được hai miếng thịt ba rọi, một gói mì thì 8 người ăn, cơm thì đủ. Thời gian đó, họ áp đảo tinh thần để về Việt Nam, rớt thanh lọc rất nhiều, có nhiều người tuyệt thực, mổ bụng chết… vì nhiều khi không được cứu cấp kịp, cũng có người bị ngộ độc tiêu chảy, không có thuốc men, chết.”


Riêng chị Nguyễn Mỹ Huê, hiện ở Georgia, Hoa Kỳ thì kể rằng:
“Chính phủ Hong Kong thì muốn cưỡng bức, liên lạc với bên ngoài rất khó khăn, hoàn toàn không biết một cái gì về bên ngoài hết.
Khi mình đã bỏ hết tất cả để ra đi, để mong rằng đến một nơi để tìm tự do, mình không biết rằng cái đích của mình có đến được hay không…
Bên cạnh đó tất cả đều thiếu thốn, một mặt thì chính phủ Hồng Kong lại dùng đủ mọi phương thức để cho người ta trở về.”


Một phụ nữ khác, tên Chi, từng ở trại White Head, hay còn gọi là trại Bạc Đầu, dành cho người miền Bắc, cũng cho hay:
“Thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần, quần áo được phát cũng không có đủ mặc. Phòng tắm công cộng, rất lớn cho cả hàng trăm phụ nữ tắm ở đó cùng một lúc. Đời sống tinh thần mọi người rất hoang mang, không biết đi về đâu.
Đặc biệt là có những trận đánh nhau xảy ra, khám trại, cảnh sát vào đàn áp… Càng về sau mọi người càng hoang mang vì có những trận cưỡng bức hồi hương, nói chung ai cũng căng thẳng.”


Đáng thương nhất là các em bé sinh ra trong trại cấm. Vì sống trong 4 bức tường, sau hàng kẽm gai, nên khi cha mẹ may mắn được ra trại mở, các em mới có cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngòai, như lời chị Mỹ Huê kể lại:
“Khi các em được đi ra ngoài, nhìn con trâu, con chó, thì các em cứ nghĩ là con chuột, vì trong trại cấm các em chỉ thấy chuột mà thôi mà không thấy gì hết!”

Anh Phạm Thanh Vân, hiện ở Alabama, người từng ở trại White Head, tức Bạc Đầu thì kể:
“Về an ninh, người ta rất lo âu vì trong trại có “đầu gấu”, ai có thăm nuôi là chúng biết hết và chúng khám người và khám đồ. Thí dụ thuốc lá 10 bao, thì nó cho mình 3 bao, còn chúng lấy 7 bao, tiền thì nó lấy một nửa. Đầu gấu toàn là Việt Nam mình thôi.
Miền Nam cũng có đầu gấu và miền Bắc cũng có đầu gấu. Sau các vụ tranh chấp từ chuyện nhỏ sang chuyện lớn thì người ta chia ra miền Nam riêng, miền Bắc. Nhưng biểu tình đòi tự do thì vẫn biểu tình chung, tuyệt thực, tất cả Nam- Bắc đều làm chung.”


Được biết anh Vân cũng là một trong những người mổ bụng tự sát khi rớt thanh lọc để khỏi bị trả về Hải Phòng, nơi quê nhà. May thay, anh được cứu sống. Thế nhưng:
“Tôi mổ bụng để chống cưỡng ép hồi hương, rồi đi bệnh viện, khỏi thì lại vẫn cưỡng ép hồi hương về Việt Nam,vẫn bị ép lên máy bay… Tôi phải đi trình diện, cứ hàng tuần là phải ra công an xã trình diện.”

------------------------------

Có lẽ, câu nói mà thuyền nhân nào cũng nằm lòng: “ra đi có số, định cư có phần” đúng với trường hợp của những ai đã may mắn được đến trại Bataan, Philippines, nơi đón tiếp những người được công nhận là tị nạn chính trị để chờ tiếp kiến phái đoàn.

Từ khắp các trại tị nạn ở Đông Nam Á, họ được đưa vào một trại được tổ chức rất có qui củ dưới sự điều khiển trực tiếp của Cao Uỷ LHQ và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Từ tiểu bang Tenesssie, Linh Mục Vũ Đảo, làm công việc mục vụ ở trại Bataan kể lại rằng:
“Hầu hết, thuyền nhân khi vào Bataan thì đều biết chắc rằng sẽ định cư ở Mỹ hay một số nước khác, nên chính là họ học Anh Văn và văn hoá, để thích ứng với môi trường mới.
Thành ra, chính tôi, so với thời gian ở trại tị nạn Songkha Thái Lan, và Bataan, tôi thấy khác một trời một vực và tôi rất mừng là hoàn cảnh thuyền nhân đã được chuẩn bị khá đầy đủ.”

Giờ đây, bao năm đã trôi qua, các thuyền nhân khốn khổ năm xưa đã ổn định nơi xứ người, chắc chắn, họ không thể nào quên được những ngày đau thương ấy. Nhưng, cũng từ vết thương ấy mà đã tạo cho họ bài học rất qúi giá cộng với sự hiểu biết giá trị vô cùng qúi báu của hai chữ “tự do” như lời anh Vân, cựu thuyền nhân trại White Head, tức Bạc Đầu, Hong Kong, tâm sự:
“Tôi chả có gì hối hận với việc mổ bụng của tôi cả, vì tôi không còn con đường nào khác. Tôi làm như vậy để chứng tỏ tôi vì hai chữ tự do.”

Và chị Chi, cựu thuyền nhân trại Chimawan, Hong Kong thì:
“Qua môi trường đó, nó tạo cho mình biết ghi nhận những gì mình đang có. Nhìn lại quãng đời mình đi qua, mình cảm nhận được rằng mình may mắn và ghi nhận những gì mình đang có bây giờ.”


Thuyền Nhân VN, quảng đời trong các trại tị nạn
Phương Anh, phóng viên RFA
2009-04-29

Hầu hết những ai đã từng là thuyền nhân, từng trải qua những ngày đối diện với bao hiểm nguy trên đại dương mênh mông và được sống sót đặt chân vào trại tị nạn, để chờ ngày định cư ở nước thứ ba, thì không thể nào quên được những ngày tháng cũ.
Phải nói đó là một kỷ niệm gắn chặt vào tâm hồn của họ cho dù đối với mỗi người có thời gian ở khác nhau. Có người chỉ vài tháng, có người kéo dài cả chục năm trời… Nhưng, tựu trung khi nhắc lại, thì ai cũng đều mang tâm trạng bùi ngùi và xúc động.

Cuộc sống ở trong các trại tị nạn ra sao mà đã để lại trong lòng thuyền nhân dấu ấn sâu xa đến như thế?
Vào những năm 1979 – 1980, khi làn sóng người vượt biên dâng cao, ở miền Nam lúc bấy giờ có câu nói truyền miệng: “Vượt Biên: một làm mồi cho cá, hai là má nuôi, ba là nuôi má”.

Chính sách thanh lọc

Với những người đã may mắn sống sót, trải qua bao hiểm nguy và được các tàu vớt đưa về các trại tị nạn thì đây là thời gian an bình nhất vì chỉ còn chờ ngày được các phái đoàn của các nước đến phỏng vấn tiếp nhận cho tái định cư.
Anh Lưu Thành, một cựu thuyền nhân ở trại Pulo Bidong, Malaysia, hiện đang cư ngụ ở California cho hay:
“Tôi đến trại Bidong thì thấy thư thái lắm, vì thoát được Việt Nam rồi. Tuy là thiếu thốn, nhưng là vùng đất tự do, tâm hồn thoải mái vì có niềm hy vọng là mình sẽ định cư ở đệ tam quốc gia để lập lại cuộc đời mới.”

Nhưng, đến khi có chính sách thanh lọc do Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đề ra để nhằm ngăn chặn làn sóng người Việt bỏ nước ra đi, thì đời sống thuyền nhân vô cùng cực khổ.
Ngoài việc chấm dứt sự hỗ trợ về giáo dục, y tế, Cao Ủy LHQ cũng cắt giảm lương thực. Bên cạnh đó, tỉ lệ được công nhận là người tị nạn cũng chỉ có 1%. Vì thế, bắt đầu biểu tình rải rác ở các trại tị nạn.

Thượng tọa Thích Tâm Hòa, hiện trụ trì chùa Pháp Vân ở Toronto, Canada, từng là thuyền nhân ở trại Palavaan, Philippines kể lại:
“Vào thời điểm tôi đến thì có vẻ thoải mái một chút, nhưng sau thời gian thanh lọc thì khó khăn hơn. Trước đây, người dân tị nạn ở Palawan cũng được đi mua sắm này nọ, nhưng kể từ ngày thanh lọc thì kỷ luật gắt gao.
Ngay đêm tôi nghe được Cao Ủy công bố chương trình hồi hương thì lúc bấy giờ tôi đã kêu goị các hội đoàn cựu quân nhân, tổ chức biểu tình và có 18 tăng ni tại Chuà tuyệt thực một tuần lễ.
Tôi chứng kiến cảnh người tị nạn bị phái đoàn từ chối họ rất khổ. Cũng may, nơi đó còn có nhà thờ, chùa, thánh thất nên giúp cho họ phần nào vượt qua khó khăn, khủng hoảng về tinh thần.
Trại tị nạn Palawan tương đối đầy đủ hơn các trại khác, chỉ khó khăn về nước thôi. Người dân phải sắp hàng lãnh nước. Mỗi gia đình họ được 2 can nước là 40 lít, rất khó khăn về nước. Về thực phẩm thì tương đối đầy đủ.”


Ảm ảnh hồi hương

Bắt đầu từ giữa năm 1995 trở đi, càng ngày, chính sách cưỡng bức hồi hương ở các trại càng thêm gay gắt. Lúc này, người tị nạn phải đối diện với một tương lai vô định, sống trong sự mỏi mòn, trong sự hồi hộp, sợ hãi, không biết ngày mai sẽ ra sao…
Đến bao giờ thì tới lượt mình bị đẩy lên máy bay hay lôi xuống tàu chở về Việt Nam? Hàng lọat các cuộc biểu tình bất bạo động để chống cưỡng bức hồi hương xảy ra trong khắp các trại tị nạn Đông Nam Á.
Lúc này, phải chăng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đã quá mệt mỏi với thuyền nhân Việt Nam nên cho dù có người mổ bụng, tuyệt thực, tự thiêu, treo cổ, tìm cái chết vì quá tuyệt vọng sau khi bị từ chối không được công nhận quyền tị nạn, thì họ vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Thậm chí, còn cho phép chính quyền bản xứ dùng vũ lực để đàn áp, dẹp biểu tình, đánh đập những thuyền nhân Việt Nam vô tội chỉ có bộ đồ dính trên người.

Ngay cả đất nước Philippines, vẫn được xem là quốc gia tử tế nhất cũng áp dụng chính sách cưỡng bức hồi hương. Từ Richmond, bang Virginia, Ni Sư Thích Nữ Diệu Thảo kể lại:
“Đời sống thì rất cực khổ, vì lương thực không đầy đủ. Một ngày thì một người được một lon gaọ, hai người một cái trứng, ngày nào được thịt thì 3 người được một lạng thịt và một chút rau.
Thời gian đó thì thuyền nhân rất lo sợ, luôn luôn biểu tình để tranh đấu, vì sự thanh lọc rất bất công, ai có tiền thì được đi định cư. Lúc đó thuyền nhân chiếm văn phòng cao uỷ và biểu tình, lúc nào cũng bị lính Phi canh gác và họ luôn tìm cách để giải tán. Sau một thời gian dài thì Cao Ủy cho lính vào giải tán.
Mặc dù Phi là một nước Công Giáo nhưng cũng cưỡng bức, tôi là một tu sĩ mà cũng bị bắt tại Chùa, và đưa qua trại Westcome, bị nhốt chung với một số thuyền nhân. Sau đó, nhờ sự vận động của một số hội đoàn ở hải ngoại, can thiệp nên tôi được thả ra.”


Thân phận Thuyền Nhân

Ở Indonesia, trại Galang, cuộc biểu tình kéo dài hàng mấy tháng trời. Trong những ngày ấy, cả ngàn người tuyệt thực, hàng trăm người mổ bụng tự sát. Đó là chưa kể phải tìm cách trốn chạy lính Indonesia vào cưỡng bức hồi hương.
Từ San Jose, California, anh Phi Hổ kể lại:
“Mình chống cưỡng bức hồi hương, thì đào hầm trốn trong nhà, có một số người chui vào các thùng phuy, có số người leo lên “la phông” nhà, nhưng sau thì họ phát hiện được hết. Lính mang giầy “bốt đờ sô” lấy xà beng, dọng dưới đất, rồi họ dở miếng “simili” lên, nắm đầu mình kéo lên. Nó đánh dữ lắm….
Khủng hoảng lắm. Càng trở về sau càng khắc nghiệt, nó “gô” mình lại, kẽm gai quây lại, khẩu phần ăn cắt bớt hết. Thời điểm biểu tình người ta tự thiêu hai người, tự sát mấy trăm người, còn tuyệt thực thì cả mấy ngàn người lận.”

Còn ông Trương Văn Nhu, cũng ở San Jose, California cho hay:
“Mình đi sau ngày đóng cửa, họ muốn cưỡng bức mình về VN nên họ o ép giữ lắm. Cao Uỷ cũng cắt giảm gạo, mì gói. Mình phải tự lập trồng rau để ăn thêm. Họ làm căng lắm để ép buộc mình trở về.
Biểu tình 6 tháng trời, rất nhiều người mổ bụng tự sát, đặc biệt có hai người, anh Châu, và anh Thọ là tự thiêu, chết, và quan tài để tại hiện trường 6 tháng, canh gác chung quanh, ngồi suốt 6 tháng cạnh hai quan tài đó, ngồi biểu tình ngoài trời, họ làm kỹ thuật hay lắm, làm một ống đào sâu xuống dưới đất, chôn sâu, để rỏ nước xuống, không cho thoát hơi ra.
Rồi họ giải tán cuộc biểu tình đó, họ thả lựu đạn cay, cướp luôn hai xác đó. Họ đánh đập mình, bắt 219 người thành phần lãnh đạo, trong số đó có 76 cựu quân nhân và 43 người đàn bà trẻ em, nhốt 22 tháng tại nhà tù Tamahan, đảo Tandung, họ biệt giam, gắt lắm.”


Có thể nói, vào thời điểm quốc tế đã mỏi mệt, Cao Ủy Tị Nạn LHQ đã nhắm mắt làm ngơ là những ngày tháng đau thương nhất, khốn khổ nhất của thân phận thuyền nhân Việt Nam.
Sau khi đã liều chết trên biển cả, thì lại bị giam hãm trong một nhà tù khác và cho dù chính biết bao người đem cái chết để làm chứng cho hai chữ “tự do” vẫn không làm lay thay đổi chính sách cưỡng bức hồi hương.
May mắn thay, khi bị trả về Việt Nam, một số được định cư theo chương trình ROVR hay còn gọi là Chương Trình Tái Định Cư Cho Người Hồi Hương và mãi đến năm 1999, 2000 thì họ mới thực sự được đặt chân đến Hoa Kỳ, một đất nứơc tự do và dân chủ, như họ hằng mong ước. Anh Trương Văn Nhu nói:
“Làm sao quên nổi, một thời gian tôi qua đây bị khủng hoảng luôn, vì ở đảo 6 năm, ăn uống thiếu thốn, rồi bị đưa về Việt Nam, cưỡng bức về, một thuyền nhân thì có 5 người police, khiêng xuống tàu và chở 1 tuần lễ thì về đến Việt Nam. Về Việt Nam thì bị làm khó dễ vì họ nói là cứng đầu, không chịu hồi hương. Về địa phương thì cứ bị làm khó dễ, biết tiếng Anh, xin dậy học không cho…

-------------------------------

Trên đây là lời kể của một số thuyền nhân về đời sống của họ trong những ngày tạm dung tại các trại tị nạn. Riêng ở HongKong, nơi có số thuyền nhân Việt Nam cao nhất, đã được chính quyền bản xứ đối xử ra sao? Cuộc sống của họ như thế nào? Mời qúi vị nghe tiếp vào kỳ sau.

No comments: