Minh Phú Lê Tân / VMLý
August
5, 2025
https://dcvonline.net/2025/08/05/thay-cu-on-xua/
Có
bạn nào còn nhớ gió Foehn là gì hôn? Cái thứ gió thổi ngược từ trong đất liền
ra biển, hay là từ trên núi xuống đồng bằng ấy mà. Vừa khô ran, vừa nóng rát da
luôn. Miền Bắc Việt Nam mình thì gọi nó là gió Lào. Ai ở vùng Nam California
thì biết nó là Santa Ana wind. Tôi đã say sưa nghe Thầy Tiếu đi tới đi lui
trong lớp nói về thứ gió này ở châu Âu, tại sao nó lại là gió nóng để rồi sau
này, mỗi lần được hưởng nó là tôi lại nhớ tới Thầy.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2025/08/HNC-1966.jpg
Học
sinh HNC đến thăm Thầy Phạm Đình Tiếu (áo ca-rô), Tết Bính Ngọ – 1966. Ảnh của
tác giả.
Rồi
các bạn có biết tại sao mình bay từ Việt Nam qua Mỹ thì nhanh hơn là mình bay từ
Mỹ về Việt Nam hông? Nhanh hơn cả một, hai tiếng đồng hồ đó nha. Đó là nhờ luồng
“Jet Stream” mà Thầy Tiếu đã dạy năm đệ tam í. Từ khi có máy bay phàn lực bay ở
cao độ 10–15 ngàn mét (tức là 30–45 ngàn feet), người ta mới khám phá ra luồng
gió này. Vì vậy mà ngành khí tượng mới đặt tên cho nó là Jet Stream. Nó thổi
cùng chiều với vòng quay của trái đất, tức là từ Tây sang Đông và nó là tác
nhân gây ra đủ thứ rắc rối về thời tiết trên đời. Nghe lùng bùng lỗ tai chưa
nè?
Bạn
nào chê học địa lý hình thể khô khan? Hổng có tôi trong đó đâu nha. Thầy Tiếu
làm tôi mê nào là núi đá hoa cương, nào là đồng bằng do sa thạch từ đáy biển trồi
lên, nào là các đảo do núi lửa tạo thành. Đừng nghĩ bậy nhe. Chưa kể là nhờ có
các hiện tượng thời tiết xâm thực lên đất đá nên chúng ta mới có những kỳ quan
thiên nhiên như các hẽm vực hay hang động khắp nơi.
Quý
bạn thông cảm. Tôi có duyên với địa lý từ hồi bảy, tám tuổi lận. Khoảng năm
1955, 1956 thì Ba tôi đưa gia đình về quê ở Ba Tri, Bến Tre sau khi Ông nội tôi
qua đời. Từ cuộc sống thành thị, tôi bở ngỡ khám phá cuộc sống nông thôn. Ông nội
tôi lúc sinh thời là hương chức trong làng An Bình Tây. Tôi khám phá ra trên án
thư của Ông là một tập họa đồ vẽ tay bằng mực tàu. Nét vẽ và chữ viết rất sắc sảo
gây ấn tượng mạnh trong cái đầu còn như tờ giấy trắng của tôi. Những địa danh lạ
tai làm tôi thắc mắc và tò mò tìm hiểu. Từ làng An Bình Tây tôi dò ngón tay qua
các làng lân cận như An Đức, An Hòa. Từ quận Ba Tri tôi lật qua các quận khác
trong tỉnh Bến Tre như Giồng Trôm, Bình Đại. Rồi tự nhiên tôi tìm được sự liên
hệ giữa khoảng cách trên bản đồ và khoảng cách thật sự ngoài đời. Có ai còn nhớ
tỉ lệ xích hôn? Nó đó. Rồi thì phương hướng, kim nam châm và la bàn. Hồi đó đám
con nít trong xóm phục lăn khi tôi chẻ một cọng rơm làm hai theo chiều dọc rồi
đặt cây kim may lên đó. Tôi cho nó nổi trong tô nước rồi chỉ tụi nó đâu là hướng
Bắc và suy ra các hướng khác cho tụi nó hết cãi luôn.
Kịp
đến khoảng giữa năm 1958 thì Ba tôi dắt gia đình trở lên Sài–gòn, định cư ở
vùng Cầu Sơn, cách ngã ba Hàng Xanh một đỗi không xa. Lúc học lớp nhứt cho tới
năm đệ ngũ, tôi đi học bằng xe buýt vàng hay xe buýt xanh. Ngày nghỉ sau khi phụ
Má tôi bán bánh mì xong là tôi ra leo lên xe buýt đi chơi. Hồi đó học sinh đi
đâu cũng chỉ tốn có một đồng. Từ ngã ba Hàng Xanh tôi đi ra trạm chánh ở Bùng
binh Sài–gòn rồi đổi xe đi mút chỉ đến cuối mỗi lộ trình. Chữ “tuyến đường” mới
có sau này thôi. Xe buýt vàng thì chạy lòng vòng các lộ trình Thị Nghè – Bà Chiểu
– Chi Lăng – Phú Nhuận – Ngã tư Bảy Hiền. Xe buýt xanh thì từ Sài-gòn túa ra
các hướng đi Cây Gõ, đi Gò Vấp, đi Phú Nhuận, đi Lăng Cha Cả…Đó, địa lý nó thấm
vô máu tôi như vậy đó.
Qua
năm đệ tứ tôi có được xe đạp riêng để đi học luyện thi Trung học Đệ nhất cấp
thì tôi khám phá thêm những con đường ở SàI-gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định và những năm
tiếp theo tôi còn dám đạp xe lên tới Gò Vấp, Quang Trung và Biên Hòa nữa kìa.
Cái máu phiêu lưu bắt đầu từ thưở ấy.
Địa-Lý
Việt-Nam, giáo sư Trung học Võ Trường Toản, và Phạm Đình Tiếu, giảng viên
Đại
học Sư Phạm, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Đà Lạt – Cần Thơ, 1969, Cơ sở Xuất bản Sử
Địa, SG. Nguồn hình: OntheNet
Thành
ra khi gặp lại Thầy Tiếu năm đệ nhất (1965 – 1966) thì tôi mừng lắm.
Năm ấy Thầy dạy cả hai môn Sử và Địa. Tôi say mê những bài giảng của Thầy, nhất
là những bài về địa lý chánh trị và nhân văn. Trừ lúc đầu giờ đứng trên bục viết
dàn bài, Thầy Tiếu thích đi tới đi lui hay ngồi tựa vào cạnh một bàn học trò để
giảng bài. Thầy thích mặc áo sơ–mi ca–rô ngắn tay, tóc hớt cua, tiếng nói to,
giọng miền Trung nhưng không nặng nên dễ nghe. Thầy đi tới đâu là tôi ngoảnh cổ
theo Thầy. Tôi say sưa nhìn cánh tay của Thầy đưa lên xuống hay đưa qua lại kèm
với bàn tay lúc nắm lúc mở để diễn tả những điều Thầy muốn truyền đạt. Thầy hay
gọi học trò bằng “mi”.
– “Này,
tụi mi biết không, ở xứ người ta nửa đêm đèn đỏ mà xe vẫn ngừng lại chờ đèn
xanh mới đi. Kỷ luật tự giác đến mức như thế đó.”
Thầy
Tiếu lúc ấy chưa xuất ngoại lần nào. Thầy tốt nghiệp từ Trường Đại học Sư phạm
nhưng Thầy khoe là quen biết nhiều giáo sư ở Đại học Văn Khoa SàI-gòn, như Tiến
sĩ Quách Thanh Tâm tốt nghiệp ngành Địa lý ở Pháp về. Tôi say mê lắng nghe Thầy
kể chuyện ngoại quốc để mà ước, để mà mơ…
Tôi
cảm thấy như là trong mỗi bài giảng, Thầy Tiếu muốn nhắn nhủ và tâm tình với học
trò về những mơ ước của Thầy. Khi được biết Thầy đã ra đời đi dạy, đã có vợ mà
vẫn còn học lên nữa thì tôi phục lắm. Đúng là một ông thầy mẫu mực cho học trò
noi gương.
Ngay
cả môn Sử khô khan Thầy Tiếu cũng làm cho những bài học có hồn. Thầy liên hệ những
sự kiện với giai thoại cho học trò dễ nhớ. Cái nhìn chung là Sử và Địa chẳng ăn
nhậu gì với nhau mà sao ghép lại làm khổ học trò? Tôi vỡ lẽ ra khi nghe Thầy giải
thích:
– “Tụi
mi phải nhìn Sử-Địa như ri: Cả hai đều nghiên cứu về con người. Sử nghiên cứu
con người trong phạm trù thời gian còn Địa thì nghiên cứu con người trong phạm
trù không gian. Những diễn biến lịch sử trong Đệ nhị Thế chiến đã thay đổi
bản đồ thế giới như thế nào, tụi mi thấy đó.”
Cái
duyên địa lý của tôi với Thầy Tiếu lên cao thêm một bậc khi gần cuối niên học 1965–1966.
Năm đó bổng dưng rộn ràng chuyện Bộ Giáo dục tổ chức Kỳ Thi Đua Trung học Toàn
Quốc. Các trường công, tư náo nức chọn gà ra sân đấu. Gà được chọn theo tiêu
chuẩn là: Đứng hạng nhất, nhì, ba toàn năm học đệ nhất trong lớp và đứng hạng
nhất cả hai lục cá nguyệt cho môn đi dự thi. Hội đồng giáo sư Trường Hồ Ngọc Cẩn
chọn ra được mấy con gà, trong đó có Nguyễn Lê Anh và Vương Thanh Xuyên
đi thi Toán và Lý-Hoá, còn tôi thì đi thi Sử-Địa.(Sau này tôi được biết thêm là
có một gà HNC chạy lạc sang bên Petrus Ký năm đệ nhất, đó là Ngô Kim Bảng lớp
Pháp văn. Bảng đi thi Toán, Lý-Hóa cho Petrus Ký). Gà đi thi môn nào thì giáo
sư dạy môn đó chịu trách nhiệm o bế, kèm cặp. Tôi đã nghe phong phanh tin này rồi
mà khi Thầy Tiếu vào lớp chính thức thông báo, trong bụng tôi vẫn cứ đánh lô tô
nhưng chắc cái lỗ mũi của tôi phồng dữ lắm. Thấy tôi lúng ta lúng túng, Thầy cười:
– “Sao
mi run mà mắt sáng rỡ hỉ? Ráng lên, cuối tuần ni mi bắt đầu phải đến nhà tao học
thêm.”
Tôi
không nhớ Thầy xưng hô với lớp là gì, riêng tôi thì vẫn nhớ chữ “tao” mà Thầy
xưng với tôi. Tôi ngầm hiểu là được Thầy cưng. Tôi ví mình như là đệ tử ruột của
sư phụ trong chuyện kiếm hiệp.
Mà
tôi được cưng thiệt. Thầy Tiếu trao cho tôi nhiều thứ bửu bối lắm nha. Về Sử,
Thầy đưa cho một số tài liệu mà Thầy dặn là không được khoe với người ngoài. Thầy
đoán là đề thi môn Sử nhắm vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi được đọc những
sách và tài liệu về Quốc Dân Đảng ở Việt Nam, về ông Nguyễn Hải Thần, về phong
trào Việt Minh…Tài liệu nhiều cái quá sức hiểu biết của tôi lúc ấy nên bài thi
thì coi như trúng tủ nhưng mà tôi không đủ sức làm, và cũng không có thí sinh
nào làm nổi nên môn Sử năm ấy không có giải thưởng nào.
Về
Địa, tôi như bị hớp hồn với cuốn bản đồ Atlas của Rand McNally mà Thầy cho mượn.
Tôi mê mẩn chở sách về, trong lòng sướng rơn lên. Bìa nó cứng, màu đỏ, bề ngang
hơn hai gang tay, bề dài hơn ba gang tay, bề dầy gần ba đốt lóng tay, nặng chắc
phải vài kí lô. Tôi nâng niu, chăm chút nó trong lòng khi mở ra học. Những lời
Thầy giảng như càng rõ thêm khi mở sách ra. Ai nhìn bản đồ thấy nó chi chít rối
mù chứ tôi thì nhìn vô càng thêm sáng ra. Những màu sắc, những ký hiệu, ngay cả
độ lớn nhỏ của mỗi địa danh đều được sắp xếp có hệ thống để cung cấp thông tin.
Đối với tôi, bản đồ là một vật sống chứ không phải vô hồn. Cuốn Atlas có đủ loại
bản đồ trong đó, về hình thể, về chính trị, về dân số, về tài nguyên, v.v…
Trước
khi đi thi một tuần, Thầy Tiếu dặn dò tôi tập trung vào ba cặp quốc gia: Mỹ và
Liên Xô, Trung hoa và Ấn độ, Anh và Nhật mà Thầy nghi là họ sẽ cho trong một đề
tổng hợp. Thầy giải thích và phân tích những điểm tương đồng và dị biệt trong mỗi
cặp và dặn tôi ráng nhớ vẻ các bản đồ để chứng minh lý luận của mình. Đề thi Địa
năm đó là: So sánh Anh quốc và Nhật Bản. Tôi trúng tủ.
Kỳ
thi đua Trung học Toàn quốc năm 1966 được tổ chức tại Trường
Trưng Vương trong tháng năm, khoảng hai tháng trước kỳ thi Tú Tài II phổ thông.
Thí sinh khắp nơi trên toàn quốc về dự tranh. Mỗi môn thi một ngày, qui định
cho giờ thi là từ 8 giờ sáng đến 2 giờ trưa. Thí sinh chỉ
được mang theo viết, mực (cấm xài viết nguyên tử), thước kẻ, viết chì và
thức ăn nhẹ. Giấy làm bài thi và giấy nháp do Bộ cung cấp.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2025/08/VML2-600x478.webp
Võ
Minh Lý, đệ nhất B, Trung học Hồ Nọc Cẩn: Giải Nhất môn Địa Lý kỳ thi đua
Trung-Học Toàn-Quốc, 1966. Ảnh của tác giả.
Khác
với ngày thi môn Sử tôi chỉ làm bài được vài tiếng đồng hồ rồi tắt tịch, ngày
thi môn Địa tôi làm bài muốn hụt hơi luôn. Đến trưa thì phải vừa viết vừa nhai
bánh mì cho kịp giờ. Sau khi soạn ra dàn bài, tôi phải canh giờ để làm từng phần.
Cái kiểu viết vài ba chữ lại phải chấm mực làm tôi sốt ruột không ít, mà phải
chịu vậy. Tôi đã ngồi liền tù tì sáu tiếng đồng hồ, xài khoảng mười trang giấy
trong đó phải vẽ năm, sáu cặp bản đồ minh họa. Tối hôm ấy tôi trình lại với
Thầy Tiếu diễn tiến hai ngày đi thi. Thầy lắc đầu bài thi môn Sử, chê Bộ cho
bài quá cao. Thầy gật gù bài thi môn Địa của tôi làm, mừng cho tôi trúng tủ.
Lúc tôi chào ra về, Thầy vỗ vỗ vai tôi: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên hỉ. Thôi mi về học luyện thi tiếp với bạn đi.”
Một
buổi sáng đẹp trời tin mừng đến tai tôi nhưng tôi đâu dám tin liền. Tin là sáng
hôm ấy trên Đài Phát thanh Sài-gòn, Bộ Giáo dục thông báo kết quả Kỳ Thi đua
Trung học Toàn quốc. Sáng sớm nào tôi cũng mắc bận phụ Má tôi sắp soạn các thứ
rồi đẩy xe bánh mì ra Ngã ba Hàng Xanh trước khi đi học nên tôi đâu có nghe tin
tức bao giờ. Trong lúc sắp hàng vô lớp là tôi đã nghe tiếng xầm xì: “Thằng
Lý lùn trưởng lớp mình đạt giải nhứt Địa lý tụi bây ơi. Tao nghe ra–dô sáng
nay.” Nhiều đứa không tin, mà tôi cũng không dám tin dù nghe có khoái cái lỗ
tai thiệt. Cho tới khi Thầy Tiếu bước vô lớp, miệng cười tay chỉ mặt tôi: “Thằng
Lý, mi ăn mừng đi. Gà của Trường Hồ Ngọc Cẩn thắng giải nhất môn Địa
lý! Sướng chưa hỉ?” Tôi chỉ biết đứng dậy lúng búng nghẹn ngào cám ơn
Thầy: “Dạ, em có làm gì đâu. Mọi chuyện nhờ Thầy hết mà.” Giây phút
thăng hoa ấy thật tuyệt vời.
Khoảng
mười ngày sau thì tôi được kêu lên văn phòng. Thầy Hiếu, Hiệu Trưởng HNC, bắt
tay chúc mừng và trao thư mời của Bộ đến Ba Má tôi. Bộ Giáo dục cũng mời Thầy
Hiệu Trưởng và Thầy Tiếu tham dự buổi lễ trao giải thưởng tổ chức tại Trường Quốc
gia Âm nhạc vào giữa tháng sáu năm 1966. Tôi hãnh diện lắm, năn nỉ Má tôi
nghỉ bán một buổi đi dự để tôi khoe Thầy ruột của mình. Ba tôi thì khỏi nói, ổng
mua được tờ báo có đăng tin của đài phát thanh đi khoe tùm lum trong xóm.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2025/08/TTII.webp
Võ
Minh Lý, Chứng chỉ Tú-Tài phần thứ hai, Kỳ thi đua Trung Học toàn quốc, ngày 3
tháng 5, 1966, Ban Địa Lý, Hạng: Đương nhiên
Tôi
vẫn nhớ mãi cái ngày trọng đại ấy vì mấy thuở mà được đi taxi. Thầy Tiếu gặp
Ba Má tôi thì “Chúc mừng hai bác.” Thầy Hiếu, Hiệu trưởng, trông rất
bệ vệ, tươi cười. Tôi đâu khoảng người thứ tám lên lảnh thưởng, như đi trên
mây. Tôi nhận được Giấy Ban Khen và một bao thơ. Kết quả chung là có chừng hơn
mười giải thưởng, trong đó tôi biết chắc là ngoài tôi thì còn một giải nhất nữa
cho môn Vạn vật. Má tôi chấm cô nàng giải nhất này, tên Hương, mà số không
duyên nợ nên tôi chẳng bao giờ gặp lại.
Về
nhà mở bao thơ ra thì ngoài số tiền thưởng hai ngàn đồng, tôi được một ngạc
nhiên lớn khác: Chứng chỉ Tú Tài II. Vậy là tôi đậu luôn Tú Tài II rồi sao? Tôi
tức tốc đạp xe qua nhà Thầy Tiếu để hỏi thực hư. Thầy cũng ngớ ra, chưa thấy
cái chứng chỉ nào như vậy. Gì đâu mà Ban: Địa lý; Hạng: Đương nhiên! Chứng
chỉ của người ta thì Ban: A, B, hoặc là C; Hạng thì Ưu, Bình, Bình thứ hoặc là
Thứ. Tôi hoang mang cả mấy tuần cho tới khi biết chắc ăn là coi như mình
được miễn thi Tú Tài II phổ thông. Với cái chứng chỉ Tú Tài không giống ai ấy,
tôi đã nghe lời bạn bè nộp đơn xin học bổng và đã được chọn đi du học ở Mỹ
năm 1967.
Tháng
sáu năm 2016 này là đúng 50 năm ngày tôi thi đậu Trung học Toàn
Quốc. Thầy Tiếu nay không còn nữa để tôi thăm hỏi. Nghe nói là trước 1975 thì
Thầy có cơ hội đi Pháp, lấy được bằng Tiến sĩ Địa lý bên đó rồi đi dạy cho tới
khi Thầy mất.
Tôi
viết bài này như là một nén hương lòng để tưởng nhớ và mãi mãi ghi khắc công ơn
dạy dỗ đặc biệt của Thầy.
Tháng
5, 2016
Nếu
đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể
lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi.
Ông là một trong 105 cựu sinh viên học bổng Học bổng Leadership, Nhóm I
(1967-1971), của USAID
No comments:
Post a Comment