Sống
trong vùng xám: Điều hướng để Việt Nam tự chủ giữa một thế giới bất định
Đinh Hoàng Thắng
21/08/2025
Tóm
tắt: Bài
viết định hướng một chiến lược mới trong kỷ nguyên “Phục Hưng Sông Hồng” dựa
trên năm trụ cột: tái định vị bản sắc, làm chủ hỗn mang bằng phân tích và dự
báo, kiến tạo giá trị của chủ nghĩa trường tồn, cải cách ĐCSVN thành đảng kiến
tạo phục vụ và điều hướng nền ngoại giao mềm, nhằm chủ động tạo ảnh hưởng. Kết
luận: trong vùng xám hiện nay, khả năng sinh tồn và phát triển không đến từ sức
mạnh đơn thuần mà từ minh triết, năng lực quan sát và kiến tạo đồng thuận.
“Huyền
nhiệm nào dẫn ta về Thượng Đế,
Thoát trần gian xóa bỏ mọi xiềng mê,
Hạnh phúc nào cho tình yêu diễm lệ?
Mà không xây mộng mị giữa cuồng điên –
Con tim phàm và tình yêu thế tục!”
(Phỏng
dịch Pierre Corneille, Polyeucte, 1642) [1]
***
Dẫn
nhập
Trong
thế giới đương đại đầy bất định, ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình, giữa đồng
minh và đối thủ, giữa trật tự và hỗn mang đang dần bị xóa nhòa. Không còn một
cung đường thẳng tiến nào dẫn tới tương lai, chỉ còn những khúc quanh, những
vùng xám – nơi bản lĩnh chiến lược và sự minh triết chính trị trở thành yếu tố
sống còn.
Hội
nghị thượng đỉnh Mỹ – Nga tại Alaska (16/8/2025) hé lộ một chỉ dấu: Nếu Moscow
có thể hợp pháp hóa vùng đất chiếm đóng ở Ukraine bằng thỏa thuận do hai cường
quốc dẫn dắt, liệu Bắc Kinh có thử áp dụng “tiền lệ” ấy đối với Đài Loan hay Biển
Đông? [2] Khi một trật tự dựa trên pháp quyền, nhân quyền và bình đẳng quốc gia
nhường chỗ cho trật tự mới – nơi sức mạnh quyết định tất cả – thì thông điệp phải
chăng là: các quốc gia vừa và nhỏ sẽ bị áp đặt số phận nếu không biết tự định
đoạt cho mình?
Trong
vùng xám ấy của lịch sử, sẽ là thảm họa nếu Việt Nam chỉ đứng bên lề các sự kiện.
Để tránh tình huống ấy, cần thoát khỏi chủ nghĩa giáo điều, phải dũng cảm xây dựng
hệ hình tư duy mới: dựa trên minh triết bản sắc, năng lực phán đoán, coi biến động
là quy luật, gấp rút cải cách thể chế và phải điều hướng một nền ngoại giao thức
thời.
1.
Tái định vị bản sắc để xác lập chiến lược quốc gia
Bản
sắc nào là nền tảng để định hình chiến lược? [3] Việt Nam phải trả lời câu hỏi
cốt lõi: Ta là ai trong kỷ nguyên mà trật tự pháp lý quốc tế suy yếu, sức mạnh
cường quyền có xu hướng lên ngôi?
Trong
truyền thống, người Việt không coi hỗn mang là vô nghĩa. Kinh Dịch dạy rằng hỗn
mang là một loại trật tự động, với quy luật biến dịch có thể nắm bắt. Từ đó, sự
minh triết trở thành điều kiện sinh tồn: biết nhận diện xu hướng, biết giữ cái
bất biến trong cái vạn biến. Chính nhờ vậy, các bậc tiền nhân mới có thể tự khẳng
định bản sắc trong cơn xoáy của quyền lực toàn cầu.
Chiến
lược quốc gia hôm nay, vì vậy, không thể chỉ là phản ứng tình thế. Nó phải bắt
đầu từ tái định vị bản sắc: Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình nhưng
không chấp nhận bị khuất phục, một quốc gia tầm trung nhưng không chấp nhận bị
định đoạt.
2.
Làm chủ hỗn mang – Xây dựng năng lực phân tích và phán đoán
Khúc
quanh hiện nay của thế giới hậu-hiện đại khiến con người ta dễ loại bỏ cả lý
trí lẫn niềm tin, khiến trật tự không còn mục đích cao cả, còn hỗn mang lại được
tôn vinh như tự do vô độ. Trong hỗn mang ấy, nếu không có năng lực phân tích và
phán đoán, mọi dân tộc đều dễ bị cuốn trôi.
Người
Việt có truyền thống “đọc được” hỗn mang để tìm lối đi. Các hệ thống tri thức
và phương pháp quan sát – dù xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau – đã từng
mang lại cho tổ tiên khả năng tìm điểm tựa trong bất định. Phan Bội Châu từng học
Dịch để suy ngẫm về con đường đấu tranh [4]. Đó là minh chứng: Ngay cả khi luật
pháp quốc tế sụp đổ, dân tộc vẫn có thể bám vào năng lực quan sát – phân tích –
dự báo để sinh tồn.
Ngày
nay, tinh thần ấy nên được hiện đại hóa thành một hệ thống phân tích chiến lược:
Đọc xu hướng cường quyền, dự báo rủi ro toàn cầu, và chủ động “đi trước một nước”
trong mọi kịch bản. Không phải là huyền học, mà là một dạng tri thức hệ thống
hiện đại bằng trí tuệ Việt Nam và khoa học phân tích – phán đoán toàn cầu.
Chúng ta không thể thay đổi bàn cờ thế giới, nhưng chúng ta sẽ hiểu và đối mặt
hiệu quả hơn với các nước cờ trên đó.
3.
Chuyển từ phản ứng sang kiến tạo – Chủ nghĩa trường tồn mới
Việt
Nam lâu nay thường phản ứng trước các biến cố. Nhưng cứ thụ động phản ứng hoài
thì chỉ chạy sau lịch sử. Thế giới bất định buộc chúng ta phải chuyển từ phản ứng
sang kiến tạo – từ phòng thủ sang xây dựng những giá trị trường tồn.
Chủ
nghĩa trường tồn mới mà Việt Nam cần chính là tinh thần không sợ biến động,
tinh thần coi biến động là quy luật. Trong sự giao thoa của âm và dương, trật tự
và hỗn mang, luôn ẩn chứa cơ hội để kiến tạo.
Điều
này đòi hỏi một sự thay đổi tư duy: Thay vì tư duy co cụm và ngắn hạn để bảo
toàn, Việt Nam phải dấn thân để kiến tạo – kiến tạo chuẩn mực, kiến tạo giá trị,
kiến tạo ảnh hưởng. Đây không chỉ là sự tồn tại, mà là biểu hiện sinh động của
một chủ nghĩa trường tồn có từ lâu đời [5].
4.
Cải cách thể chế – Từ đảng cách mạng sang đảng phục vụ
Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo nếu chuyển đổi từ
một đảng cách mạng thành một đảng phục vụ. Đại hội XIV không chỉ là một cột mốc;
nó phải trở thành điểm khởi đầu. Để duy trì vai trò trung tâm, Đảng cần vượt
trên mô hình “lãnh đạo tập trung” và trở thành “kiến trúc sư của các tiểu hệ thống.”
ĐCSVN
có thể cải cách thể chế dựa trên nguyên lý “tích – tản” [6]. Tích tụ nguồn lực:
Từ tri thức, niềm tin đến sáng kiến xã hội. Tản quyền điều hành: Trao quyền cho
địa phương, xã hội dân sự, doanh nghiệp, báo chí, minh bạch hóa quản trị nhà nước.
Chuyển từ toàn trị sang kiến tạo, Đảng phải biết ủy quyền, biết điều chỉnh
chính sách dựa trên dữ liệu. Đảng “tích tụ” nguồn lực (nhân tài, tri thức, lòng
tin), kiến trúc hệ thống vận hành (pháp luật, quy tắc, phản hồi), và sau đó “tản
quyền” – trao lại sức mạnh cho xã hội.
Một
đảng cầm quyền hiện đại phải giải trình bằng hiệu quả, vận hành dựa trên dữ liệu,
và đối thoại thay vì áp đặt. Trọng tâm của cải cách thể chế không phải là mở rộng
quyền lực trung tâm, mà là thiết kế lại hệ thống để tích tụ và lan tỏa sức mạnh
từ bên dưới – từ cá nhân, từ doanh nghiệp, từ địa phương. Chỉ khi coi nhân dân
là chủ thể để phục vụ – chứ không chỉ là đối tượng kiểm soát – Đảng mới có thể
trở thành lực lượng kiến tạo.
Để
phát huy vai trò lãnh đạo, ĐCSVN không thể vận hành bằng các công thức chính trị
– kinh tế cứng nhắc từ thế kỷ trước. Trở thành bộ tham mưu kiến tạo để phục vụ
– Đảng cần đi đầu trong dự báo tình hình, biết thích nghi để mở đối thoại với
người dân và thế giới. Trong quá trình này rất cần sự linh hoạt: Dám thay đổi
khi hoàn cảnh thay đổi, nhưng vẫn kiên định với cái bất biến – lợi ích dân tộc
và chủ quyền quốc gia. Đây không phải là sự từ bỏ quá khứ cách mạng, mà là sự
tiếp biến từ cách mạng chuyển sang kiến tạo [7].
Một
yêu cầu cấp bách khác của cải cách thể chế là hòa hợp và hòa giải dân tộc. Cải
cách thể chế không chỉ là kỹ thuật quản trị, mà còn phải là hàn gắn và mở lòng.
Chúng ta đã có thể kiến tạo quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” với những cựu
thù lớn nhất trong lịch sử, thì cớ sao vẫn chưa đạt được sự hòa giải và hòa hợp
trọn vẹn ngay trong quốc nội, cũng như giữa quốc nội với cộng đồng kiều bào bên
ngoài? Chỉ khi gỡ bỏ thành công những rạn nứt từ quá khứ, năng lượng xã hội mới
thực sự được giải phóng để cùng nhau kiến tạo tương lai.
5.
Ngoại giao thức thời – Từ phòng thủ sang xây dựng ảnh hưởng mềm
Ngoại
giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới phải vượt khỏi tuyến phòng thủ. Truyền thống
“dĩ bất biến ứng vạn biến” cần được nâng cấp: Không chỉ “ứng”, mà phải “biến
hóa” để tạo ảnh hưởng mềm [8].
Tinh
thần của hệ hình tư duy mới khẳng định rằng âm và dương luôn vận động, tiếp biến
trong mối quan hệ đối lập – bổ sung. Ngoại giao Việt Nam cũng nên như thế: Mềm
dẻo trong chi tiết, kiên định trong nguyên tắc; biết hợp tác khi cần, biết kiềm
chế khi bắt buộc, khi “tạm dừng” hay khi “tâm công” đều là những hình thức nhằm
hướng tới việc bảo vệ độc lập – chủ quyền.
Muốn
thế, Việt Nam cần phát triển ngoại giao ở cả ba cấp độ: Quốc gia – khu vực –
toàn cầu. Trong quá trình kiến tạo luật chơi, ở tầng nấc kỹ thuật hay chiến thuật,
có thể linh hoạt, nhưng ở tầm chiến lược thì quyết không thể “đi hàng hai”, bám
giữ triết lý nguy hiểm, “không chọn bên, chọn lẽ phải…” [9].
6.
“Phục Hưng Sông Hồng”: Vận dụng lợi thế từ nền minh triết Đông Á
Dựa
trên năm trụ cột của hệ hình tư duy mới, tại sao Hà Nội lại không khát vọng khởi
xướng một “Phục Hưng Sông Hồng”, để góp phần kiến tạo an ninh bền vững và thịnh
vượng lâu dài cho Đông Á trong kỷ nguyên biến động nối tiếp biến động này?
Bất
định vẫn có cơ mở ra cánh cửa cho thành tựu, nếu chúng ta hành động với đức hạnh
và minh triết. Nếu nhà lãnh đạo dám “vượt qua sông lớn”, biết lấp đầy cái còn rỗng
và định hướng các sự kiện bằng viễn kiến, sẽ thu về thành quả to lớn.
Cốt
lõi của minh triết Đông Á chính là sự cân bằng. Trung Hoa có Đạo giáo và Trung
dung. Ở Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Lào, Phật giáo truyền giảng “Con đường
Trung đạo” dẫn tới thịnh vượng và hạnh phúc. Ở Nhật Bản, Thần đạo tìm kiếm sự
hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Tại Malaysia và Indonesia, Kinh Qur’an
răn dạy chúng ta phải luôn tôn trọng “sự quân bình”.
Kết
luận
Việt
Nam hoàn toàn có thể đăng cai một cuộc gặp thường niên của các nhà lãnh đạo
chính phủ, các nhà tư tưởng, học giả, triết gia – một “DAVOS của Đông Á” chẳng
hạn – để tìm các ứng xử minh
triết trước những biến đổi đang đến với cộng đồng
toàn cầu. Cụ thể hơn, Việt Nam có thể đóng vai là người bạn tin cậy, thúc đẩy sự
đồng thuận giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Điều này sẽ góp phần hình thành một
thế quân bình quyền lực trấn an, đem lại lợi ích cho các quốc gia vừa và nhỏ
trong một Đông Á hòa bình và giàu bản sắc văn hóa.
Việt
Nam cũng từng có những đóng góp vượt ra ngoài biên giới. Giáo sư Võ Tòng Xuân
đã đạt thành công vang dội ở Sierra Leone và nhiều quốc gia châu Phi, khi đưa
các giống lúa cao sản sang giúp họ gây dựng nền nông nghiệp lúa nước [10]. Tại
Mỹ, Pháp, Úc và Canada… cộng đồng người Việt cũng đã thành công rực rỡ trong
kinh tế, văn hóa và chính trị. Những minh chứng ấy khẳng định, ngay cả ở những
vùng đất xa xôi, Việt Nam vẫn không bị lãng quên.
Thế
giới tuy đang ở trong vùng xám của lịch sử, nhưng vùng xám không phải là bế tắc
– đó là khoảng không gian mở, nơi mọi lựa chọn đều có thể trở thành bước ngoặt.
Muốn tự chủ giữa bất định, Việt Nam phải tái định vị bản sắc, làm chủ hỗn mang,
kiến tạo giá trị, cải cách thể chế, và mở rộng ảnh hưởng mềm. Trên tất cả, phải
nuôi dưỡng một hệ hình tư duy mới – vừa thấm đẫm hồn cốt Việt, vừa gắn kết với
trí tuệ nhân loại, để có thể tạo dựng lên một “Đồng thuận Đông Á”!
Luận
giải về “trật tự” và “bất định” không nhất thiết dừng lại ở các kết luận của
Dr. Kissinger [11]. Điều quan trọng hơn là phải thẩm định được năm trụ cột
trong hệ hình tư duy nói trên trước ngưỡng trật tự mới [12]. Và như trí khôn
phương Đông từng nhấn mạnh: Biến động là vĩnh cửu. Nhưng trong biến động, dân tộc
nào có được minh triết, dân tộc ấy sẽ trường tồn.
________
Tác
giả: Tiến
sĩ Đinh Hoàng Thắng là cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, từng là Trưởng Nhóm Tư vấn
Lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam và hiện là Thành viên của CRT. Một phiên bản tiếng
Anh của bài viết có thể đọc tại đây:
https://www.cauxroundtable.org/author/cauxroundtable_agmls4/
--------------
Chú
thích:
[1] https://suckhoedoisong.vn/cao-thom-lan-gio-cormeille-nghi-gi-169124712.htm Pierre
Corneille, Polyeucte: Pierre Corneille (1606 – 1684) là người mở đầu bi kịch cổ
điển, đồng thời là nhà thơ lớn của nước Pháp. Polyeucte là nhân vật chính trong
vở bi kịch cùng tên “Polyeucte”, biểu tượng cho tinh thần tử vì đạo và sức mạnh
niềm tin Cơ Đốc. Khổ thơ trên phỏng dịch từ “Quel charme me conduit vers le
Dieu que j’adore? / Je triomphe du monde, et je sors de ses fers / Heureux qui
peut aimer d’une amour toute pure, / Mais malheureux celui qui fonde son
bonheur” — Adapted from Pierre Corneille, Polyeucte (1642).
[2]
Thượng đỉnh Trump-Putin: thách thức trật tự tự do và cơ hội cho Việt Nam: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c626dg13kx0o
[4] https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/phan_boi_chau-nha_van_hoa.html
[5] https://www.voatiengviet.com/a/co-mot-chu-nghia-truong-ton-viet-nam/7961206.html
[6]
TS. Nguyễn Thế Hùng: Tích Tản – Một nguyên lý, một tầm nhìn, một con đường (NXB
Thông Tin 2010)
[7] https://tuoitrethudo.vn/chuyen-doi-trang-thai-sang-kien-tao-chu-dong-phuc-vu-nhan-dan-280478.html
[8] Việt
Nam với ‘ngoại giao thức thời’: từ hình tượng cây tre đến chiến lược quốc
gia: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cdx5v0448wyo
[9] “Không
chọn phe, chọn chính nghĩa…” – Một triết lý ngoại giao nguy hiểm! https://boxitvn.online/?p=94713
[10] https://siwrp.org.vn/tin-tuc/giao-su-vo-tong-xuan-va-tam-nhin-cay-lua-xuyen-bien-gioi_4333.html
[11]
Sách “Trật tự Thế giới của Henry Kissinger” (Penguin Books, 2015) tổng hợp tư
tưởng ngoại giao toàn cầu và cấu trúc địa chính trị qua nhiều thế kỷ thông qua
các nghiên cứu điển hình lịch sử. Mặc dù mang tính nền tảng, nhưng nó là điểm
khởi đầu—chứ không phải điểm kết thúc—cho việc suy ngẫm chiến lược: https://www.academia.edu/118015198/Kissinger_Henry_World_Order_New_York_Penguin_Press_2014
[12] Việt
Nam Trước Ngưỡng Cửa Của Trật Tự Thế Giới Mới, Đinh Hoàng Thắng (2017), Thời Đại
số 36. Tác giả nhấn mạnh tính linh hoạt của cả Việt Nam và trật tự toàn cầu
đang tiến triển, đề xuất một khung khổ khái niệm (hệ hình “P&DOWN”) để điều
hướng quá trình chuyển đổi: https://tapchithoidai.diendan.org/ThoiDai36/201736_DinhHoangThang.pdf
No comments:
Post a Comment