QUỐC MINH/DNSGCT
Thứ hai,
25/2/2013 | 17:17 GMT+7
https://doanhnhansaigon.vn/du-lich/huyen-thoai-cua-ba-lat-1046247.html
Nơi
sông Hồng đổ ra Biển Đông có nhiều câu chuyện đẹp và ly kỳ như huyền thoại. Có
người truyền miệng rằng cái tên cửa Ba Lạt bắt nguồn từ chính những xác người
chết đói năm 1945 không được chôn cất, phải cột ba mối lạt tre thả trôi sông Hồng
để ra nấm mồ lớn ở Biển Đông.
Nhiều người
khác lại kể tên Ba Lạt phát xuất từ xa xưa khi cửa sông còn phân làm ba nhánh
nhỏ chứ không chỉ một như bây giờ. Còn một số sử liệu lại ghi rằng Ba Lạt chính
là tên làng xưa.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/1-18-large-1508323646.jpg
Cửa
Ba Lạt trong sương khói chiều xuân
Nơi sông Hồng chảy vào Biển Đông
Từ Phố Hiến,
Hưng Yên, tôi xuôi sông Hồng qua Hà Nam, Nam Định để tìm đến cửa Ba Lạt. Trên dải
đất tơi xốp phù sa, đồng lúa đã gặt, trơ những gốc rạ khẳng khiu trong ánh nắng
vàng vọt cuối ngày.
Dọc đường
đê ven sông, mấy chiếc máy tuốt đang gặt nốt những bó lúa cấy muộn. Rơm rạ bay
mù mịt lên cao rồi lả tả trải vàng trên mặt đê. Hương lúa ngòn ngọt lẫn trong
mùi bùn phù sa ngái nồng.
Mặt trời đỏ
ối khuất dần sau lũy tre bên kia sông. Trong tiếng chuông nhà thờ cổ Giao Thiện
văng vẳng gọi buổi lễ lẫn tiếng chim chiều chao chát về tổ. Tôi đi dọc bờ đê về
cuối sông mà mắt cứ nhòe mờ vì khói đốt đồng…
Đoạn cuối
sông Hồng này xuôi trên dải đất mới giữa hai huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định và
huyện Tiền Hải, Thái Bình. Tôi được nghe chuyện kể truyền lưu qua ký ức của bao
đời người già địa phương rằng các vỏ sò, vỏ hến cổ đã được tìm thấy từ sâu
trong nội đồng bây giờ.
Có lẽ, cửa
Ba Lạt của sông Hồng xa xưa không chảy ra Biển Đông tại vị trí hiện nay. Nó có
thể phải nằm sâu đâu đó trong nội đồng Thái Bình, Nam Định. Và theo thời gian,
cửa sông lấn dần ra biển cùng với sự kiến tạo đất mới của vùng duyên hải này.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/2-3-1508323645.jpg
Một
ngôi nhà cổ bên bờ sông Hồng
Cách đây gần
một thế kỷ, nhà nghiên cứu Pierre Gourou, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, đi khảo
sát thực địa và tính toán bãi cửa sông Hồng phía bên Nam Định đã lấn ra biển gần
1km chỉ từ 1895. Còn bên kia cửa sông Hồng ở huyện Tiền Hải, Thái Bình, một bản
đồ in năm 1901 cho thấy biển lùi ra gần hai kilômét.
Thời điểm
Pierre Gourou nghiên cứu, tuy vùng đất mới được bồi đắp ở cửa sông Hồng này còn
là cồn bãi sình lầy chứ chưa phải là đồng bằng, nhưng đã lưa thưa có người ra lập
làng, mưu sinh bằng nghề biển. Cuốn Nam Định địa chí cũng chép
rằng chỉ bên mạn sông Hồng ở tỉnh này đã được bồi đắp khoảng 90ha đất mới mỗi
năm.
Tối đầu
tiên ở cửa Ba Lạt, tôi dừng chân tại nhà khách Vườn quốc gia Giao Thủy. Trăng
trung tuần sáng vằng vặc. Khí trời lành lạnh, ngái nồng mùi bùn nước lợ cửa biển.
Tôi không ngủ được, cùng người bạn mới quen ra bờ sông Hồng chơi.
Con đường
đất nhỏ từ nhà khách vườn quốc gia ra đồn biên phòng 84 ven sông thật bình yên.
Những ngôi nhà dân lưa thưa đã tắt đèn ngủ sớm trên cánh đồng ngập ngụa trong
ánh trăng ướt đẫm.
Bên bờ
sông, đồn biên phòng còn hắt ánh đèn. Mấy anh lính trấn thủ ngồi nhìn mặt nước
loang loáng ánh bạc và tán gẫu để quên nỗi nhớ nhà. Sông Hồng về đến đây tuy
không còn thoải dốc như đoạn sơn cước Yên Bái, Lào Cai trên thượng nguồn ở đất
Việt, nhưng sức chảy của dòng nước vẫn còn rất mạnh.
Dưới ánh
trăng, có thể thấy mờ mờ những cây củi đã lìa khỏi núi rừng biên viễn nào đó
trên cao để trôi như lao ra biển. Thoáng chạnh lòng, tôi ghen tỵ với những khúc
củi tự do phiêu du này. Có lẽ, chính chúng mới thấu cảm đến tận cùng dòng nước
sông Hồng trầm đục phù sa, chứ không phải là một lữ khách phương Nam cô đơn như
tôi.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/3-3-large-1508323646.jpg
Nuôi
nghêu trên bãi sông Hồng
Từ bờ đê ở
xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy, đoạn sông này khá thẳng thớm dù sức nước vẫn
làm đôi bờ bị sạt lở nặng. Ngay sát đồn biên phòng, những nền nhà, ao hồ xây
kiên cố ở ngoài đê đã phải bỏ hoang vì sông lở.
Thiếu úy
Ngô Xuân Nam tâm sự vùng này có cả đê biển lẫn đê sông được đắp khá kiên cố,
nhưng mỗi mùa mưa đến là người dân lại ăn không ngon ngủ không yên vì lo sợ sự
tranh giành đất đai của hà bá.
Người ta
đã nghiên cứu rằng phải cần đến hàng triệu năm, bà mẹ thiên nhiên mới kiến tạo
được sông Hồng và hệ thống đồng bằng châu thổ của nó. Nhưng chỉ trong khoảng
1.000 năm, từ khi lịch sử ghi chép triều đại nhà Lý ở thế kỷ XI manh nha be đắp
bờ sông Hồng thì cũng có nghĩa là dòng sông tự nhiên này cũng bắt đầu thay đổi.
Các triều
đại thịnh, suy của nước Việt nối tiếp nhau từng bước trị thủy sông Hồng để bảo
vệ kinh thành Thăng Long và các xóm làng, ruộng đồng châu thổ. Hàng thế kỷ trôi
qua, những bờ đất nhỏ bé chưa liền lạc ở bờ sông kinh đô đã dần dần lớn lên,
dài dọc thành con đê.
Và thế là,
nước sông Hồng không còn được hoàn toàn tự do dâng tràn đồng vào mùa mưa lũ như
bao ngàn năm trước. Thuở đầu công cuộc trị thủy này, sự thay đổi của dòng sông
còn diễn biến chậm.
Từ đầu thế
kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn cuối, dòng sông đã đổi thay mang tính đột biến
cùng với ý chí và khả năng can thiệp của con người. Ngay cư dân ở cửa Ba Lạt
cũng có thể chứng kiến rõ rệt điều đó. Trước khi có hồ thủy điện Hòa Bình, châu
thổ sông Hồng đã hứng chịu rất nhiều trận mưa bão dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/4-11-1508323645.jpg
Cá
vược, loại cá hiếm ở cửa sông Hồng
Các cụ già
ở Ba Lạt kể rằng khoảng thời gian trước năm 1970, dòng chính của sông Hồng ở cửa
Ba Lạt chảy ở lạch Bắc hiện nay. Tuy nhiên, trận mưa lũ lịch sử trong mùa thu
năm 1971 đã dâng tràn nước sông Hồng, và dòng chảy cuộn xiết của lũ đã xoáy
tung dải cát bồi tụ giữa cồn Lu với cồn Vành, để tạo ra luồng cửa sông mới.
Sau đó,
các trận mưa lũ mà đặc biệt là đợt bão lụt mùa thu năm 1973 đã tiếp tục mở rộng
luồng sông này. Từ phía Bắc, dòng chủ lưu ở cửa sông Hồng đã đổ sang luồng dẫn
mới mặc dù vẫn còn một số lạch phụ hai bên cửa sông như lạch Trà, lạch Vọp, lạch
Bắc…
Vườn quốc gia Giao Thủy – nơi bảo vệ cửa Ba Lạt
Từ sau năm
1989, khi hồ thủy điện Hòa Bình bắt đầu tích nước và xả nước có điều tiết ra
sông Đà, rồi nhập về sông Hồng, thì cửa Ba Lạt lại tiếp tục thay đổi. Giai đoạn
đầu là sự tàn phá ồạt các cánh rừng ngập mặn hai bên cửa sông Hồng để nuôi trồng
thủy sản và làm nông nghiệp. Nó nhanh chóng làm kiệt quệ hệ sinh thái đa dạng của
vùng cửa sông.
Mãi sau,
khi chính quyền và người dân dừng tay tàn phá để chuyển sang cứu hệ sinh thái
này bằng việc phát triển Vườn quốc gia Giao Thủy, trồng rừng trên cồn Lu, cồn
Vành, cồn Ngạn và dải bãi cát ven biển thì Ba Lạt dần hồi sinh. Nó lại tiếp tục
hành trình lấn ra Biển Đông cùng với sự bồi tụ các cồn bãi ngày càng lớn dần…
Cuộc chuyện
trò miên man với các anh lính biên phòng và người già ở địa phương đã giúp đêm
trôi qua nhanh. Tôi về nhà khách vườn quốc gia chợp mắt được một chút trong tiếng
cười nói lao xao của những người đi khai thác thủy sản sớm.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/5-2-1508323645.jpg
Nông
dân thu hoạch khoai bên bờ sông
Bình minh
ngày mới vừa lên, tôi thức dậy, đi dọc con đường nhỏ xuyên Vườn quốc gia Giao
Thủy, để lên đài quan sát toàn cảnh cửa sông Hồng.
Đến gần 12
giờ trưa, cả hai chiếc ống kính telé và góc rộng máy ảnh mà tôi đã háo hức mang
vác suốt hành trình sông Hồng vẫn chưa phát huy được mấy tác dụng ở đây. Sương
khói, mây mù lãng đãng như muốn che giấu đoạn cuối thân phận dòng sông, để còn
tiếp tục khơi gợi sự tò mò, khám phá của lữ khách phương Nam.
Tôi đành
tiếc rẻ ngắm những vạt rừng đước gần tầm mắt đang sinh tồn lúp xúp trên mặt nước
dâng bãi bồi ven cửa sông. Bờ sông bên huyện Tiền Hải, Thái Bình chỉ có thể thấy
một vệt mờ nhàn nhạt như ánh mày thiếu nữẩn sau lớp khăn voan che giấu dung
nhan.
Luyến tiếc
rời tháp quan sát, tôi lang thang trong Vườn quốc gia Giao Thủy. Từ bao đời
nay, nó đã gắn bó cộng sinh với cửa sông Hồng. Có phù sa dòng sông này bồi đắp
cùng với quá trình lấn biển miệt mài suốt hàng thế kỷ của tự nhiên, thì mới có
hệ sinh thái Giao Thủy.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/6-2-1508323645.jpg
Lưới
cá cầu may ở Ba Lạt
Ngược lại,
chính hệ sinh thái Giao Thủy đã giữ được vẻ đẹp tự nhiên cho nơi sông Hồng hòa
cùng Biển Đông, mà đặc biệt là giúp cửa Ba Lạt bớt bị tàn phá, đổi thay địa
hình bởi bàn tay con người cũng như bà mẹ thiên nhiên.
Vườn quốc
gia này hiện có tổng diện tích khoảng 15.000ha. Trong đó riêng vùng lõi rộng
7.100ha với 3.100ha đất nổi có rừng và 4.000ha vùng ngập nước.
Những ngày
mải mê ở cửa Ba Lạt, tôi lang thang thực địa và hình dung vườn quốc gia này được
tạo thành bởi bốn “điểm nhấn” chính là Cồn Ngạn, Cồn Lu, Cồn Mờ và Bãi Trong.
“Bức tường
thành” không chỉ bảo vệ vườn quốc gia này trước đại dương mà còn ngày ngày lặng
lẽ lấn Biển Đông chính là Cồn Lu. Nó rộng nhất vườn với diện tích khoảng
4.500ha và quanh năm xanh tươi cùng hệ thực vật duyên hải ô rô, bần chua, sú
vét, mắm, cóc kèn…
Non trẻ nhất
trong hệ sinh thái Vườn quốc gia Giao Thủy có lẽ là Cồn Mờ, nằm bên ngoài Cồn
Lu phía đại dương. Nó vẫn còn đang trong quá trình hình thành từ biển, và có lẽ
vì vậy mà người địa phương đã gọi là Cồn Mờ theo nghĩa “còn mờ nhạt”.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/7-2-1508323645.jpg
Một
ngôi nhà cổ bên bờ sông Hồng
Cùng hành
trình tìm hiểu vườn thiên nhiên ven cửa sông Hồng với tôi, còn có một nhà sinh
học người Pháp. Anh bạn đã đến đây từ nhiều ngày trước để chỉ lặng lẽ một mình
ngắm chim.
Trên nhiều
diện tích vườn quốc gia này, sự can thiệp của con người vào thiên nhiên có thể
thấy rõ với những công trình nhân tạo như ao, rạch, bờ đắp. Nhà sinh học Pháp
có vẻ trầm buồn trước cảnh này.
Một số
nhân viên vườn lại cho rằng đó là điều cần thiết, vì có thể điều tiết nước thuận
lợi cho việc bảo vệ thảm thực vật cũng như động vật trong vườn. Tuy nhiên, điều
trông thấy rõ rệt nhất là nhiều người nghèo địa phương đang sống nhờ vườn quốc
gia.
Ngược chiều
tôi vào vườn là những người lấm lem bùn đất. Họ vào vườn từ lúc trăng còn sáng
để nhặt nhạnh những con cá, con vẹm, con tôm nhỏ bé và ít ỏi cho kịp buổi chợ
sáng.
Dấu ấn người xưa
Tôi rời
Giao Thủy, qua bên kia bờ Tiền Hải của Thái Bình. Mặt trời chiều chênh chếch hắt
dài bóng lữ khách trên mặt sông trầm đục phù sa. Con đường cũng là đê sông Hồng
được mở rộng ra đến 8-10 mét và đang bê tông hóa.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/8-5-1508323646.jpg
Chùa
Keo nổi tiếng ở cuối sông Hồng đang được trùng tu
Cha ông
ngày xưa dùng tre làm kè đê. Sự hiện đại thời nay đã thay bằng bê tông cốt
thép. Người ta làm từng tảng bê tông dày hơn 20cm, có cạnh khoảng 40 – 50cm đan
cài vào nhau. Cứ cách vài mét lại có những cây đà bê tông cốt thép vắt mình từ
trên mặt đê đến tận đáy sông.
Kỹ sư xây
dựng tin rằng kè đê bê tông này tốn kém một lần nhưng bền vững hơn tre rất nhiều.
Còn trong con mắt lữ khách sông Hồng như tôi thì vừa thấy vui lại vừa tiếc nuối.
Việc kiên
cố hóa đê tiện lợi cho việc đi lại và bảo vệ mùa màng của người dân. Nhưng nó
cũng làm mất đi quang cảnh xanh tươi, thân thuộc từ bao đời qua của rặng tre vệ
đê.
Tỉnh Thái
Bình gấp rút đẩy nhanh việc mở rộng đường đê để phát triển du lịch khu vực cửa
Ba Lạt. Chậm rãi lang thang men sông ra biển, tôi cảm nhận rất rõ cư dân bao đời
ở đây đã sống nhờ thủy sinh pha trộn giữa nước ngọt phù sa sông Hồng cùng biển
mặn.
Sử sách
cũng như ký ức truyền lưu qua bao đời dân địa phương kể rằng cả dải đất Tiền Hải
trước biển này chạy dài đến Giao Thủy (Nam Định), Kim Sơn (Ninh Bình)… đều là
vùng đất bồi mới.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/9-3-1508323646.jpg
Buông
câu ở cửa Ba Lạt
Xưa kia,
nó còn rất hoang vu và thưa thớt ngư dân sinh sống. Chỉ khoảng vài trăm năm gần
đây, các lưu dân mới đổ về ngày càng đông. Đặc biệt, Nguyễn Công Trứ là người
có công lớn với việc mở làng, xây dựng đê điều vùng đất mới này.
Chuyện xưa
vẫn còn ghi rõ rằng Nguyễn Công Trứ sau khi trấn áp cuộc khởi nghĩa Phan Bá
Vành, đã phát hiện tiềm năng của vùng đất duyên hải mới ở Đồng bằng sông Hồng.
Và từ năm 1828, ông bắt đầu đẩy mạnh công cuộc khẩn điền ở dải đất duyên hải Tiền
Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình).
Đích thân
Nguyễn Công Trứ thường xuyên đi kinh lý thực địa, vẽ bản đồ, khuyến khích dân
chúng tham gia khai hoang cùng với việc phát trâu bò, nông cụ cho họ làm việc.
Chế độ khen thưởng đúng người, đúng công của Nguyễn Công Trứ rất được lòng dân.
Ông tổ chức lực lượng khẩn điền thành các lý, ấp, trại, giáp.
Người nào
mộ được 50 suất đinh, khai khẩn từ 600 mẫu trở lên sẽ được phong chức lý trưởng.
Người mộ được ít hơn với 30 suất đinh, khai hoang từ 400 mẫu được phong chức ấp
trưởng…
Chỉ trong
thời gian ngắn, rẻo đất mới, hoang vu Tiền Hải đã có sinh khí với hệ thống hành
chính gồm 14 lý, 27 ấp, 20 trại và 10 giáp trên gần 20.000 mẫu đất ruộng và
2.350 người dân.
Sự thành
công này như vệt nước loang ra các vùng duyên hải Đồng bằng sông Hồng khác và
nhanh chóng trở thành một quốc sách khẩn điền, canh nông được ưu tiên hàng đầu
trong triều đại nhà Nguyễn thời kỳ này.
https://i.doanhnhansaigon.vn/2013/02/23/10-1-1508323646.jpg
Con
cá thủ vàng giá 950 triệu đồng
Ngày nay,
về dải đất Tiền Hải nơi cửa sông Hồng, tôi vẫn được nghe các cụ già thành kính
kể lại bao chuyện về Nguyễn Công Trứ. Có lẽ, ông là một trong những vị quan hiếm
hoi được người dân hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn trân trọng xây dựng đền sinh từ
để tôn vinh công đức ngay lúc ông còn sống ở tuổi già.
Hằng năm,
cứ đến ngày 14/11 Âm lịch, người dân địa phương Thái Bình, Ninh Bình lại thành
kính hương khói tưởng nhớ ngày ông vĩnh viễn về với tiền nhân theo con nước
sông Hồng. Trong buổi lễ này, họ không bao giờ quên phần ca trù từ chính những
tác phẩm của vị quan đầy chất lãng tử.
Đặc biệt,
trong các lễ cúng gia đình địa phương, người ta cũng hay nhắc đến tên Nguyễn
Công Trứ như một sự tưởng nhớ công đức và kêu gọi sự phù hộ của vị thần thiêng
này.
Những ngày
lang thang nơi sông Hồng hòa vào Biển Đông, tôi không chỉ được nhìn ngắm cảnh
quan xinh đẹp và nghe chuyện xưa, mà còn tận mắt chứng kiến bao chuyện kỳ lạ
như huyền thoại đang diễn ra ở cửa biển này.
Đó là một
buổi chiều đầu năm, mưa xuân rả rích làm Ba Lạt chìm trong sương lạnh, nhưng
trong ngôi nhà của ba cha con ngư dân Trần Văn An ở xã Nam Hồng, Tiền Hải rộn
rã tiếng cười. Sông nước vừa trao tặng họ món quà đặc biệt mà cả đời chài lưới
cũng không thể tin có ngày thành hiện thực.
Chỉ một mẻ
lưới chiều, họ đã bắt được con cá thủ vàng nặng 70kg, bán trao tay tại ghe với
giá 950 triệu đồng. Chuyện thật như huyền thoại về loại cá đắt tiền nhất Việt
Nam ở cửa sông.
Chiều xuân
trên cửa Ba Lạt chìm, trời ửng nắng vàng. Tôi ngồi bên bờ sông nhìn bóng dân
chài thấp thoáng trên mặt nước trầm đục phù sa mà cảm như cả một nền văn minh
sông Hồng đang ẩn hiện ở đâu đây…
No comments:
Post a Comment