Người
phụ nữ qua luật pháp và tập quán Việt Nam
20 Tháng Mười, 2020
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/ta-van-tai-nguoi-phu-nu-qua-luat-phap-va-tap-quan-viet-nam/
TÍNH
LIÊN TỤC VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG VAI TRÒ
CỦA
PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
TẠ VĂN TÀI
Harvard Law School & Luật sư tại Massachusetts
ĐỖ THỊ THU TRÀ chuyển ngữ từ tiếng Anh
Lời
giới thiệu. Bài nghiên cứu dưới đây
của GS Tạ Văn Tài, chuyên gia luật pháp, cho thấy bức tranh được tu chỉnh so với
thành kiến truyền tụng về quyền và vai trò người phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ
phong kiến cho tới hiện đại. Đó cũng là một cách vinh danh người phụ nữ Việt
Nam. Xin giới thiệu. NXX
✩✩✩
Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc
sống gia đình và xã hội, vì “phụ nữ nắm một nửa bầu trời”, như Mao Trạch Đông từng
nói, và ở Hoa Kỳ, phụ nữ quyết định chiến thắng chính trị cho các ứng cử viên
vào thời điểm hiện tại. Sự thay đổi vai trò của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ
lịch sử là một nghiên cứu về sự hòa nhập của nhiều nền văn hóa: văn hóa bản địa
Việt Nam, văn minh Trung Hoa, ảnh hưởng của văn hóa Pháp và các nước phương Tây
khác. Những ảnh hưởng này vẫn còn để lại dấu vết cho đến thời điểm hiện tại, dù
ở trong nước hay trong cộng đồng người Việt hải ngoại bên ngoài Việt Nam. Vì vậy,
một khảo sát về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội trong suốt
chiều dài lịch sử sẽ cho phép chúng ta thấy được vai trò đó có tính liên tục và
sự thay đổi như thế nào.
Chúng ta sẽ không kể lại những công lao to lớn
của các nữ anh hùng trong lịch sử Việt Nam, như Hai Bà Trưng đánh đuổi
các lãnh chúa thực dân Trung Hoa, giành độc lập cho Việt Nam năm 40-43 sau Công
Nguyên, hay Bà Triệu (249 sau Công Nguyên) người cũng từng chiến đấu chống người
Trung Hoa, hoặc các nhà cách mạng Cô Giang và Cô Bắc, những người hoạt động chống
Pháp, mặc dù những nữ anh hùng này có thể giúp chúng ta nhận biết về vai
trò của phụ nữ Việt Nam trong đời sống xã hội, vai trò đã có trong thời kỳ trước
phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ trong thế giới hiện đại. Đúng
hơn, ở đây chúng ta quan tâm đến vai trò kinh tế, xã hội và địa vị pháp lý
của những người phụ nữ Việt Nam “bình thường” trong suốt chiều dài lịch sử, ở
Việt Nam cũng như ở nước ngoài.
Chúng ta nhận thấy rằng có một CHỦ ĐỀ XUYÊN SUỐT
trong hành trình của phụ nữ Việt Nam: các quy tắc đạo đức chính thức có thể đã
được ủng hộ cũng như luật pháp nhà nước có thể đã được ban hành để áp đặt sự bất
bình đẳng đối với phụ nữ, nhưng NHỮNG TẬP QUÁN DÂN GIAN THỰC SỰ, được nuôi dưỡng
bởi các chức năng được thực tế đặt ra của phụ nữ, ĐÃ LUÔN ỦNG HỘ VAI TRÒ BÌNH ĐẲNG
CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM, VÌ VẬY ĐÁNH BẠI NHỮNG ĐỊNH KIẾN DO NAM GIỚI TẠO RA, VÀ LUẬT
PHÁP CUỐI CÙNG CŨNG THÍCH ỨNG VỚI XU THẾ BÌNH ĐẴNG NÀY VÀ TRAO ĐỊA
VỊ BÌNH ĐẲNG CHO PHỤ NỮ.
I. PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG NƯỚC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG:
NHỮNG GIÁ TRỊ GIA
ĐÌNH BẢN ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG THEO TRUNG HOA
Nước Việt Nam truyền thống bị chi phối bởi văn
hóa Trung Hoa, với các quy tắc đạo đức Nho giáo về ba mối quan hệ ràng buộc (tam
cương) và ba sự phụ thuộc (tam tòng): tam cương là (i) lòng
trung thành của thần dân đối với hoàng đế, (ii) lòng hiếu nghĩa của con cái đối
với cha mẹ, (iii) sự vâng lời của vợ đối với chồng; và ba phụ thuộc là bổn
phận của người phụ nữ: “tại gia tòng phụ” (theo cha khi còn trẻ), “xuất giá
tòng phu” (theo chồng khi lấy chồng) và “phu tử tòng tử” (theo các con trai khi
góa chồng). Sự đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ về mặt đạo đức đã được
được phản ảnh vào địa vị thấp hơn dành cho người vợ trong pháp luật. Nhiều
tội lỗi của người vợ đối với chồng bị trừng phạt với mức độ nghiêm trọng như tội
lỗi của con cháu đối với cha mẹ, ông bà. Một số hành động chỉ bị xem là phạm
tội khi do người vợ thực hiện, mà nếu do người chồng làm thì không bị xem là phạm
tội (ví dụ: đánh vợ không thương tích). Người chồng có thể đơn phương bỏ vợ
vì một trong bảy lý do (thất xuất) như không có con hoặc ghen tuông.
Nhưng những lý tưởng đạo đức hoặc luật pháp
nêu trên – chắc chắn được truyền cảm hứng bởi một chính phủ do nam giới thống
trị – đã phải nhượng bộ trước tầm quan trọng của vai trò của phụ nữ
Việt Nam trên thực tế. Họ tham gia lao động sản xuất và có lẽ làm giỏi
hơn nam giới trong vai trò này, vì các đấng mày râu mãi lo chinh chiến qua bao
nhiêu cuộc chiến tranh trong lịch sử nước ta hay bận học thi để bước vào quan
trường. Trong thơ ca gian dân, chúng ta thấy vai trò tích cực của phụ nữ Việt
Nam trong lĩnh vực nông nghiệp và tài chính.
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Lấy chồng gánh vác giang san nhà chồng.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh đi học chiếm khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu gương đời đời.
Anh ơi! phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi
Tháng chạp là tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư gieo mạ, thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng
Anh ơi, giữ lấy việc công
Để em cày cấy, mặc lòng em đây.
Vai trò của người phụ nữ Việt quan trọng đến mức
họ được mệnh danh là “Bộ trưởng Bộ Nội vụ” (Nội tướng). Một du khách
phương Tây, John Barrow, đã viết vào những năm l790: “Một người Trung Hoa sẽ thấy
đáng hổ thẹn khi giao bất kỳ việc quan trọng nào cho một người phụ nữ. Theo
đánh giá của người Việt Nam, phụ nữ phù hợp nhất và do đó được giao phó những
việc quan trọng nhất của gia đình.” (Chuyến du hành đến Nam Kỳ năm
1792 và 1793, Luân Đôn, 1806, tr.302). Luro nhận xét vào năm 1875: “Theo
phong tục Việt Nam, người vợ đóng một vai trò tự do và xứng đáng như trong lý
tưởng Cơ đốc của chúng ta”. (Cours d’Administration Annamite , Sài Gòn,
1875, tr.177).
Do vai trò thực tế của phụ nữ Việt Nam trong nền
kinh tế, ngay cả luật pháp của các hoàng đế cũng phải cho họ bình
đẳng về quyền công dân.
Về quyền nhân thân, pháp luật nhà Lê
quy định vợ và chồng phải yêu thương, tôn trọng nhau và sẽ giáng chức người chồng
bỏ bê hoặc từ bỏ vợ. Người vợ cũng có thể chủ động yêu cầu ly hôn với một
số lý do không được biết đến ở Trung Hoa (ví dụ, người chồng đã bỏ bê không
thăm viếng, ngủ vói vợ trong vòng năm tháng). Họ có thể đề nghị chồng ly
hôn đồng thuận như trong bài thơ dân gian này:
Công tôi gánh gánh gồng gồng,
Giờ ra theo chồng bảy bị còn ba.
Xưa tôi ở cùng mẹ cha,
Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành.
Bây giờ tôi về cùng anh,
Anh tham nhan sắc anh tình phụ tôi.
Đất rắn chẳng nặn nên nồi.
Anh đi lấy vợ, cho tôi lấy chồng.
Anh đi lấy vợ cách sông,
Để tôi lấy chồng giữa ngõ anh ra.
Điều quan trọng hơn là phụ nữ Việt Nam
có quyền sở hữu tài sản, điều mà phụ nữ Trung Hoa không có. Các
bộ luật truyền thống Trung Hoa không hề đề cập đến quyền thừa kế của con gái,
trong khi luật nhà Lê quy định cụ thể rằng anh chị em phải bình đẳng trong việc
kế thừa di sản của cha mẹ. Bình đẳng trong thừa kế , theo logic, dẫn đến
bình đẳng trong quản lý và thanh lý khối hôn sản. Trong thời kỳ còn chung
sống, người vợ tham gia mọi giao dịch về tài sản liên quan đến tài sản chung có
được trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ góp vào. Khi một người vợ trở
thành góa phụ có con, bà ta sẽ tiếp tục quản lý gia sản, với tư cách là chủ gia
đình, ngay cả sau khi tái hôn, và thậm chí có thể tước đoạt tài sản thừa kế của
những đứa con hư. Trong trường hợp không có con, góa phụ sẽ được hưởng các
quyền bình đẳng như người góa vợ: rút lại tài sản mà dòng tộc của mình đã đóng
góp cho cuộc hôn nhân và một nửa tài sản có được trong thời kỳ hôn
nhân; và được hưởng quyền sử dụng một phần tài sản của người chồng quá cố
cho đến khi tái hôn. Truyền thống này của triều Lê đã trở thành một luật tục
mạnh mẽ đến mức luật pháp của triều Nguyễn sau này không được người dân tuân
theo vì nó kết hợp với quy định của Trung Hoa rằng một góa phụ tái hôn mất hết
quyền đối với tài sản của gia đình. Quy tắc này của Việt Nam cũng tiến bộ
hơn quy tắc thông luật Anh-Mỹ vào thế kỷ 19 về tài sản của người vợ: “Người chồng
khi kết hôn được quyền sở hữu tuyệt đối đối với tất cả tài sản riêng của người
vợ. Những tài sản này trở thành tài sản của anh ta.” (The Law of Baron and
Femme, New Haven,1816)
Quyền hạn của người vợ Việt Nam đôi khi còn trở
nên vượt trội hơn hẳn, như được thể hiện qua những câu tục ngữ sau:
Lệnh ông không bằng cồng bà
Nhứt vợ nhì trời
Làm trai rửa bát quét nhà
Vợ gọi thì dạ, “Bẩm bà tôi đây!”
Tuy nhiên, người vợ Việt Nam điển hình không
quá độc đoán cho dù vai trò kinh tế có vượt trội, do niềm tin phổ biến là:
Thuận vợ thuận chồng,
Tát biển Đông cũng cạn.
và do đó
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở, rằng: “Anh giận gì?”
II. PHỤ NỮ VIỆT
NAM TẠI VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI:
ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC
PHÁP VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. TỪ
THỜI PHÁP THUỘC ĐẾN NĂM 1959.
Sau khi người Pháp đến đô hộ Việt Nam vào cuối
thế kỷ 19, trước tiên, họ áp dụng luật của triều Nguyễn tức triều đại cuối cùng
và sau đó ban hành các bộ luật mới, theo bộ luật Napoléon. Một lần nữa,
chúng ta thấy có sự xung đột giữa những hạn chế mà luật pháp chính phủ áp đặt
lên địa vị và vai trò của phụ nữ và động lực xã hội tiếp tục hướng tới bình đẳng
cho họ trên thực tế.
Tòa án Pháp áp dụng Bộ luật triều Nguyễn
là một bản sao của Bộ luật Thanh triều ở Trung Quốc. Vì vậy, địa vị của phụ
nữ Việt Nam phải chịu sự thụt lùi vì các tòa án vẫn công nhận quyền từ bỏ vợ của
người chồng cho đến năm 1926, và quyền của người vợ đối với tài sản riêng và phần
của họ trong khối tài sản cộng đồng cũng chỉ được công nhận không liên tục, và
thường bị phủ nhận. Vào những năm 1930, khi bộ luật dân sự mới được ban
hành ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, người vợ có một số vai trò quản lý khối
tài sản cộng đồng, nhưng khi chết hoặc tái hôn, họ có ít quyền hơn so với luật
lệ hoặc tập quán truyền thống của nhà Lê: nếu họ chết, chồng họ trở thành chủ sở
hữu duy nhất đối với tất cả tài sản kể cả phần tài sản riêng do vợ đóng
góp; nếu trở thành góa phụ và tái hôn, họ mất hết quyền đối với tài sản
riêng của chồng và chỉ có thể lấy một nửa tài sản chung nếu không có con.
Hơn nữa, theo luật pháp thuộc địa, khái niệm về
tình trạng không có năng lực pháp lý của người phụ nữ đã kết hôn là một bước
lùi: họ phải tuân theo quyền hành của chồng, sống tại bất cứ nơi nào do người
chồng chọn, để người chồng đại diện cho họ trong tất cả mọi công việc, và phải
xin phép chồng để làm một nghề, một việc buôn bán hoặc một công việc kinh doanh
riêng; họ chỉ có thể khởi kiện khi có sự ủy quyền của chồng và chỉ có thể
cho, bán, thế chấp và nhận tài sản khi có sự tham gia của chồng.
Tuy nhiên, phong tục bình đẳng cho phụ nữ vẫn
là xu hướng không thể chối bỏ trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Ngay
cả các bộ luật thuộc địa cũng nói rằng họ có đủ năng lực pháp lý để cam kết
ràng buộc chồng về công việc gia đình: đây là một tác động trực tiếp của vai
trò “Nội tướng” của họ. Trên thực tế, phong tục vẫn tuân theo truyền thống thời
Lê là yêu cầu phải có chữ ký của người vợ trong việc xử lý tài sản và cho phép
vợ lấy lại tài sản riêng khi ly hôn hoặc khi chồng qua đời. Điều này có được do
vai trò kinh tế quan trọng của phụ nữ trong nông nghiệp, thương mại và các
ngành nghề khác. Ở khu vực thành thị, đặc biệt là từ những năm 1930, đã có
phong trào nữ quyền yêu cầu giải phóng phụ nữ khỏi ách thống trị của đại
gia đình, đặc biệt là mẹ chồng, quyền tự do kết hôn (thay vì đám cưới sắp đặt),
việc học hành và theo đuổi những nghề nghiệp mới bình đẳng với nam giới – trong
kinh doanh, luật, y, dược, báo chí, văn học, nghệ thuật. Một trường phái tư tưởng
văn học mới (Tự lực văn đoàn) đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải
phóng phụ nữ.
2. QUYỀN
BÌNH ĐẲNG MỚI CHO PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1959 TRỞ VỀ SAU.
Năm 1954, Việt Nam được chia thành hai miền
Nam Bắc.
Ở miền Nam, nỗ lực hướng tới bình đẳng của phụ
nữ nổi lên như “sự báo thù” với sự khởi xướng của người được gọi là Bà Rồng, Bà
Ngô Đình Nhu, người có công trong việc Quốc hội thông qua Luật Gia đình mới. Theo
luật này, vợ và chồng cùng sở hữu và quản lý tài sản; luật pháp thậm chí
cho phép người vợ sai áp tiền lương của người chồng trong tay bên thứ
ba; thậm chí đáng chú ý hơn, quyền cá nhân của người phụ nữ đã được đẩy
xa: cấm ly hôn (trừ khi được Tổng thống cho phép!), trừng phạt ngoại tình như một
tội hình, và thậm chí phạt hình sự. mối quan hệ thân thiết đơn thuần với người
khác giới (giao du thân mật). Cả vợ và chồng đều chọn được chọn nơi cư trú
sau khi kết hôn. Quan trọng nhất là người vợ có đầy đủ năng lực pháp lý và
có thể có sự nghiệp riêng. Chế độ đa thê bị bãi bỏ.
Luật Gia đình này đã bị bãi bỏ sau cuộc đảo
chính năm 1963, nhưng Luật Gia đình năm 1964 và Bộ luật Dân sự năm 1972 vẫn tiếp
tục xu hướng đã được thiết lập theo hướng bình đẳng, mặc dù họ đã bãi bỏ một số
biện pháp cực đoan của Luật 1959 (như cấm ly hôn, hình sự hóa quan hệ “giao du
thân mật” giữa người khác giới)
Ở miền Bắc Việt Nam, một Luật Gia đình năm
1959 khác cũng xác nhận quyền bình đẳng giữa nam giới và vợ: chế độ một vợ một
chồng, quyền sở hữu chung tài sản, quyền lựa chọn nghề nghiệp và hoạt động
chính trị của người vợ. Khi ly hôn, tài sản sẽ được chia tương ứng với
công sức đóng góp. Một số người vẫn coi nam giới giỏi hơn phụ nữ và có nhiều
nam giới hơn phụ nữ trong những vị trí hàng đầu của chính phủ và Đảng. Tuy
nhiên, tập quán và luật pháp thừa nhận vai trò kinh tế và xã hội quan trọng của
phụ nữ trong nông nghiệp, công nghiệp, y tế, giáo dục và thậm chí trong các hoạt
động liên quan đến chiến tranh (như xây dựng đường bộ và giao thông). Phụ
nữ cũng tham gia bầu cử, tham gia bộ máy hành chính và các công việc của Đảng Cộng
sản. Các nguyên tắc bình đẳng nêu trên không thay đổi theo Luật Gia đình mới
năm 1986 của nước Việt Nam thống nhất.
Điều đáng chú ý là ngay cả Luật Gia đình năm
1986 của Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng quy định cụ thể việc tiếp nối các giá
trị phong tục Trung Hoa / Nho giáo và Việt Nam, như quy định vợ chồng phải tôn
trọng và yêu thương nhau, con cháu có bổn phận tôn trọng và cấp dưỡng ông bà
cha mẹ, những điều cũng là yêu cầu của quy tắc đạo đức, pháp luật thời Lê, chẳng
hạn.
III. PHỤ NỮ VIỆT
NAM Ở HOA KỲ VÀ CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY KHÁC
Một khi phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài với
tư cách là người tị nạn hoặc người nhập cư và sống ở các nước phương Tây, những
vai trò mới sẽ được đặt ra cho họ do hoàn cảnh bắt buộc, và một lần nữa,
có một số xung đột giữa những kỳ vọng của tư tưởng Nho giáo bảo thủ và thực
trạng về vai trò ngày càng mở rộng của phụ nữ.
Trong một số gia đình, phụ nữ Việt Nam thậm
chí còn trở thành trụ cột quan trọng của gia đình hơn so với lúc trước, khi họ
còn ở Việt Nam. Trong khi nhiều người đàn ông mất đi sự nghiệp và địa vị, có thể
mất tự tin và trở nên bất ổn, thất thường về cảm xúc, thì những người phụ nữ vẫn
đóng vai trò được xác định rõ ràng là “Nội tướng”, vai trò này củng cố chân
dung (self-image, hình ảnh tự thân) và bản sắc (identity) của họ: cung cấp cơm
ngon, quần áo đẹp, nhà sạch cho gia đình; nuôi dưỡng, giáo dục và dạy dỗ các
con; truyền lại ngôn ngữ và văn hóa cho lớp trẻ; tổ chức thành công các cuộc họp
mặt gia đình truyền thống vào những dịp năm mới và các buổi lễ kỷ niệm, đám cưới
và ngày giỗ khác. Nhiều phụ nữ nhập cư tị nạn Việt Nam cũng tham gia lực lượng
lao động toàn thời gian với tư cách là lao động chính nuôi cả gia đình nhờ những
cơ hội gia tăng ở miền đất mới hoặc buộc phåi di kiếm tiền để đạt tới chi thu
thăng bằng. Một số tham gia vào các hoạt động xã hội trong các tổ chức cộng đồng.
Nhiều phụ nữ Việt Nam ở hải ngoại đã thực sự trở thành những Bà mẹ siêu việt
(Supermoms) trên trường quốc tế, ở nước ngoài. Sức lực của họ được kéo căng đến
những giới hạn cao nhất. Chưa hết, họ có lẽ không có được sự hỗ trợ mà họ từng
có ở Việt Nam, chẳng hạn như người giúp việc, sự giúp đỡ của ông bà trong việc
trông cháu, hoặc sự hỗ trợ từ những người hàng xóm tốt bụng. Họ xứng đáng nhận
được sự cảm thông và ủng hộ tinh thần trọn vẹn từ tất cả chúng ta./.
Tạ Văn Tài
Nhân tháng 3, tháng quốc tế phụ nữ, tác giả đóng góp
bài viết này như một lời tri ân đến những người phụ nữ Việt Nam.
No comments:
Post a Comment