BÀI
HỌC TRANH CHẤP BIÊN GIỚI GIỮA TRUNG CỘNG VÀ BẮC HÀN
https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/posts/816555515645626
Ngoài Việt Nam, Trung Cộng chia sẻ biên giới với
13 quốc gia khác gồm Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan,
Kazakhstan, Mông Cổ, Bhutan, Nepal, Miến Điện, Nga, Lào và Bắc Hàn.
Nếu chỉ nhìn sự phụ thuộc kinh tế của Bắc Hàn
vào Trung Cộng, người ta dễ dàng đi đến kết luận Trung Cộng muốn gì được nấy,
muốn đóng cọc chỗ nào đóng, muốn vẽ biên giới đâu thì vẽ, cần gì phải đưa ra
bàn hội nghị, mà có đưa ra cũng chỉ là hình thức dàn cảnh ngoại giao.
Không.
Bắc Hàn tự cô lập khỏi thế giới văn minh,
trong nhiều năm đã lệ thuộc vào Trung Cộng từng chén cơm manh áo, nhưng họ nhất
định không nhượng cho Trung Cộng một tấc đất nào qua các hội nghị về đường biên
giới giữa hai nước.
Mặc dù cai trị đất nước bằng một lý thuyết ngu
dân hoang tưởng, bằng một chính sách độc tài sắt máu bị phần lớn nhân loại rẻ
khinh, xa lánh, ba thế hệ họ Kim ít ra có một điểm mà giới lãnh đạo đảng CSVN
không làm được, đó là quyết tâm giữ đất của tổ tiên họ để lại.
Vùng biên giới
tranh chấp
Trung Cộng và Bắc Hàn chia sẻ biên giới dài
1,416 kilômét. Các vùng tranh chấp thuộc khu vực sông Yalu, sông Tumen và Bạch
Đầu Sơn (Paektusan). Các hội nghị bí mật giữa hai nước diễn ra trước 1963 và đạt
đến điểm đồng thuận vào 1963 với sự nhượng bộ từ phía Trung Cộng.
Khu vực bất đồng sâu sắc nhất là Bạch Đầu Sơn.
Phía Trung Quốc cho rằng vùng núi lửa Bạch Đầu Sơn rộng 33 kilômét vuông trước
đây là đất Mãn Châu, do đó ngày nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Phái đoàn Trung
Quốc còn viện dẫn lịch sử khi cho đó là nơi dòng tộc Mãn Thanh bắt nguồn.
Bắc Hàn không đồng ý và cũng viện dẫn các dữ
kiện lịch sử để chứng minh Bạch Đầu Sơn thuộc về Triều Tiên từ nhiều ngàn năm lịch
sử. Đối với dân tộc Triều Tiên, Bạch Đầu Sơn là nơi Thần Hwanung kết duyên với
một phụ nữ và hạ sinh con trai Tangun, và chính Tangun đã sáng lập nên Vương Quốc
Choson đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên. Một khu vực tranh chấp khác là vùng Hồ
Chongji. Trung Cộng cho là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bắc Hàn cũng không đồng
ý.
Tuy nhiên, theo nội dung thỏa hiệp biên giới
1963, hai nước đồng ý phân chia Bạch Đầu Sơn từ đỉnh và ba phần năm vùng Hồ
Chongji thuộc Bắc Hàn. Vùng đất Trung Cộng nhượng cho Bắc Hàn rộng đến mức
chính quyền thuộc các tỉnh biên giới như Cát Lâm (Jilin) và Liêu Ninh
(Liaoning) phản đối chính quyền trung ương.
Lý do Trung Cộng
nhượng bộ Bắc Hàn
1. Bắc Hàn có
chung ngã ba chiến lược với Trung Cộng và Liên Xô. Khu vực biên giới giữa Bắc Hàn, Liên Xô (hiện nay thuộc Nga) và Trung
Cộng giữ một vai trò chiến lược vô cùng quan trọng đối với Trung Cộng. Đây là cửa
ngõ Liên Xô dùng để qua Thái Bình Dương. Cách ngã ba không xa là thành phố
Vladivostok, nơi đặt bộ tư lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương của Liên Xô. Nhiều lần
trong thế kỷ 19, thành phố cảng Vladivostok cũng là nơi diễn ra các đụng độ
quân sự giữa Nga và Trung Quốc. Sau cách mạng CS 1917, Vladivostok là điểm đổ bộ
của các lực lượng đồng minh tình nguyện trong đó có Tiệp, Anh, Mỹ, Canada với ý
định lật đổ chính quyền CS của Lenin vừa mới được dựng lên. Thành phố này bí mật
đến nỗi không cho phép một người nước ngoài nào thăm viếng. Nếu hai mặt của khu
vực tam giác chiến lược này thuộc về Liên Xô sẽ là một đe dọa quân sự nghiêm trọng
với Trung Cộng.
2. Đạo đức giả
“Giết không được tha làm phước.” Trong giai đoạn 1965,
quan hệ giữa Mao và Kim Nhật Thành trở nên căng thẳng vì thái độ nghiêng về
phía Liên Xô của họ Kim. Mao nổi giận tuyên bố đòi 160 kilômét vuông chung
quanh Bạch Đầu Sơn phải giao nộp cho Trung Cộng để trả nợ cho các khoản chi
dùng kinh tế, quân sự mà Trung Cộng đã cung cấp cho Bắc Hàn trong chiến tranh
Nam-Bắc Triều Tiên 1950-1953. Bắc Hàn chẳng những không chịu mà còn đánh trả
các xâm phạm quân sự gây ra từ phía Trung Cộng. Tháng 11 1970, cần phải dồn nỗ
lực giải quyết các bất ổn nội bộ sau Cách Mạng Văn Hóa, Mao rút lại đòi hỏi về
lãnh thổ. Bắc Hàn, một lần nữa, đạt thắng lợi mà không phải chịu đựng một thiệt
hại nào.
3. Lấy lòng Bắc
Hàn trong tranh chấp Trung-Xô. Rạn nứt về cả tư tưởng
chính trị lẫn đường lối bang giao quốc tế giữa Liên Xô và Trung Cộng bắt đầu
sau khi Nikita Khrushchev nắm quyền lãnh đạo đảng CS Liên Xô. Khi mâu thuẫn
Trung-Xô gia tăng, phong trào CS quốc tế chia làm ba cánh, một cánh đa số ủng hộ
Liên Xô, một cánh đóng vai trò trung lập như Nam Tư, Việt Nam và một số nhỏ
khác như Albany ủng hộ Trung Cộng. Trung Cộng hơn bao giờ hết cần sự ủng hộ của
Bắc Hàn. Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Cộng, chỉ thị phái đoàn đàm phán Trung Cộng
tránh xung đột và chấp nhận yêu sách của phái đoàn Bắc Hàn. Đáp lại, trong hội
nghị các đảng CS quốc tế tổ chức tại Moscow vào tháng 10, 1966, Bắc Hàn không
tham dự.
4. Nỗi sợ bị
bao vây. Như người viết đã trình bày trong nhiều loạt
bài về Trung Cộng, tất cả các yếu tố nêu trên đều phát xuất từ mối lo truyền thống
của các lãnh đạo Trung Cộng, là mối lo bị bao vây. Toàn bộ biên giới phía Bắc
Trung Quốc, bao gồm vùng Ngoại Mông đều thuộc quyền kiểm soát của Liên Xô.
Trong chiến tranh biên giới giữa Trung Cộng và Ấn Độ 1962, Liên Xô đứng về phía
Ấn. Ngay cả khi Khrushchev bị hạ bệ 1964, rạn nứt cũng không có cơ hội hàn gắn,
mâu thuẫn không có cơ hội giải quyết mà còn sâu sắc hơn. Chu Ân Lai tố cáo Liên
Xô dưới thời Leonid Brezhnev là một loại chế độ “Khrushchev không có
Khrushchev.” Vùng độn quan trọng nhất Trung Cộng phải giữ là Bắc Hàn.
Bài học đàm phán
biên giới giữa Bắc Hàn và Trung Cộng
- Nam Hàn ủng hộ Bắc Hàn trong tranh chấp biên giới
với Trung Cộng: Như cả thế giới đều biết
Nam và Bắc Hàn vẫn còn trong tình trạng chiến tranh nhưng có một lập trường họ
luôn chia sẻ đó là bảo vệ lãnh thổ của tổ tiên. Khi Bắc Hàn và Trung Cộng tranh
chấp biên giới Đông Bắc, Nam Hàn tuyên bố ủng hộ Bắc Hàn. Một lý do, vùng Bạch
Đầu Sơn là chiếc nôi của dân tộc Triều Tiên và lý do khác, sự ủng hộ của Nam
Hàn, một quốc gia dân chủ, sẽ gia tăng áp lực và đón nhận thêm cảm tình của khối
tự do Tây Phương.
Trung Cộng phải giải quyết xung đột nhanh
chóng vì không muốn Nam Hàn liên quan sâu đến tranh chấp dù chỉ trên mặt trận
ngoại giao và truyền thông. Điều mà Trung Cộng không muốn nhất là Bắc Hàn trở
thành một nước dân chủ hay thống nhất dưới thể chế dân chủ.
- Khai thác yếu điểm của Trung Cộng: Chiến lược đàm phán biên giới của Trung Cộng bị chi phối bởi chính
sách an ninh chung của cả nước trong từng thời kỳ. Theo tổng kết của M. Taylor
Fravel trong biên khảo xuất sắc “Regime Insecurity and International
Cooperation,” từ 1949, Trung Cộng tham gia 23 cuộc hội nghị về biên giới với
các nước láng giềng; trong số đó, Trung Cộng đã 19 lần phải chấp nhận phần lớn
các đòi hỏi của các nước tranh chấp. Nghĩa là, nếu có sự phân chia vùng lãnh thổ
tranh chấp, Trung Cộng nhận ít hơn 50 phần trăm. Yếu tố an ninh của Trung Cộng
được đặt lên thứ tự ưu tiên trong đàm phán. Tại Trung Quốc, người Hán chiếm 90
phần trăm dân số và chỉ 10 phần trăm còn lại thuộc các dân tộc thiểu số nhưng
10 phần trăm này kiểm soát các vùng đất bao la dọc biên giới. Giống như Liên
Xô, quyền lực của Trung Cộng mạnh ở trung tâm nhưng rất lỏng lẻo tại các địa
phương xa. Chọn lựa của Trung Cộng là chọn lựa của thế yếu chứ không phải để
hòa giải với láng giềng. Trong trường hợp đàm phán với Bắc Hàn, sự ổn định của
vùng độn Bắc Hàn quan trọng hơn vài trăm kilômét đất vùng Bạch Đầu Sơn.
- Nước nhỏ chưa hẳn là nước yếu. Bang giao quốc tế là một cuộc đấu tranh chính trị cân não. Trong thời
đại toàn cầu hóa, sự phụ thuộc giữa các quốc gia sâu sắc hơn thời kỳ Chiến
tranh Lạnh và hai cuộc thế chiến trước đây, do đó, cuộc đấu tranh lại càng khó
khăn, phức tạp và có thể phải chấp nhận nhiều rủi ro hơn. Cho dù theo đuổi bao
nhiêu mục tiêu, đối với một quốc gia, tại mỗi thời kỳ nhất định, chỉ có một ưu
tiên tối thượng. Bảo vệ sức mạnh trung tâm là ưu tiên tối thượng của Trung Cộng.
Những nhân nhượng của Trung Cộng qua các tranh chấp về biên giới cho thấy rõ một
điều quốc gia nào cũng cần ổn định để phát triển nhưng Trung Cộng cần ổn định
hơn bất cứ quốc gia nào khác. Trong thời kỳ Liên Xô còn tồn tại, Bắc Hàn khai
thác xung đột giữa hai đàn anh CS để có lợi cho mình và nay đang khai thác mâu
thuẫn Mỹ-Trung để củng cố vị trí của Bắc Hàn trong bàn cờ địa lý chính trị vùng
Nam Á.
Người viết không phân tích hay đối chiếu cách
xử sự của lãnh đạo CS Việt Nam và Bắc Hàn bởi vì một người có hiểu biết chính
trị căn bản nào cũng biết mục
tiêu tối thượng của lãnh đạo CSVN là duy trì quyền cai trị trên đầu trên cổ nhân
dân Việt Nam bất chấp đất đai, rừng, biển của tổ tiên để lại bị chiếm đoạt.
Tập Cận Bình biết rõ gan ruột của lãnh đạo
CSVN nên rất khinh thường họ. Sự kiện máy bay Trung Cộng vi phạm không phận Việt
Nam không chỉ một lần mà mấy chục lần là một ví dụ điển hình. Nếu báo chí quốc
tế không lên tiếng trước rồi lãnh đạo CSVN cũng tiếp tục “ngậm bồ hòn làm ngọt”
như đã từng chịu nhục suốt 40 năm qua.
Trần Trung Đạo
--------------
Tham khảo:
– Fravel, M. (2005). Regime Insecurity and
International Cooperation: Explaining China’s Compromises in Territorial
Disputes. International Security, 30(2), 46-83.
– Tan, M. (2015, April 23). North Korea,
International Law and Dual Crises: Narrative and Constructive Engagement.
Routledge.
– Elleman, B., Kotkin, S., Schofield, C.
(2012, October 3). Beijing’s Power and China’s Borders: Twenty Neighbors in
Asia. Routledge.
– Pinilla, D. (2004). Border Disputes between
China and North Korea. China Perspectives.
– Conferences of the Communist and Workers
Parties. (1979). The Great Soviet Encyclopedia.
– Sino-Soviet Split. https://en.wikipedia.org/wiki/Sino-Soviet_split
– China–North Korea border https://en.wikipedia.org/.../China%E2%80%93North_Korea...
Bản đồ bán đảo Triều Tiên
*
No comments:
Post a Comment