Những
thách thức cho chiến lược an ninh đối ngoại của Biden
Vũ
Ngọc Yên
11/07/2021
https://baotiengdan.com/2021/07/11/nhung-thach-thuc-cho-chien-luoc-an-ninh-doi-ngoai-cua-biden/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/07/0-51.jpg
Tổng thống Joe
Biden và các lãnh đạo G7 tại Conwall, Anh quốc hồi tháng 6/20201. Nguồn: EPA
Tình hình địa chính trị thế giới trở nên nóng
bỏng trong thời gian gần đây với hàng loạt sự kiện quan trọng, được đánh dấu
qua chuyến công du đầu tiên của Tổng thống Joe Biden tới châu Âu tham dự hội nghị
thượng đỉnh nhóm bảy cường quốc G7 (ngày 12.6 tại Cornwall, Anh), thượng đỉnh
NATO (ngày 14.6 tại Brussel, Bỉ), thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo Liên minh
châu Âu (ngày 15.6 tại Brussel, Bỉ), và cuối cùng là cuộc gặp thượng đỉnh với
người đồng cấp Nga Vladimir Putin vào ngày 16.6 tại Geneve, Thụy Sĩ.
Dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm và
đánh giá cao kết quả của các cuộc họp thượng đỉnh. Các nhà bình
luận quốc tế nhận định chuyến đi đầu tiên của Biden đến châu Âu, không chỉ
nhằm thuyết phục G7, các đồng minh NATO và Liên minh châu Âu rằng Mỹ quay trở lại,
mà còn để vận động các đồng minh hỗ trợ cho những chủ trương trong tân
chiến lược an ninh đối ngoại của Mỹ.
Những định
hướng mới của chính quyền Biden
Nhìn bề ngoài, Tổng thống Joe Biden đang theo
đuổi các mục tiêu tương tự như người tiền nhiệm. Trong khi “Nước Mỹ trên hết” của
Trump chỉ đơn thuần là khẩu hiệu của một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa
dân tộc mang nặng sắc thái ích kỷ, thì trên thực tế Biden đang thực hiện
một sứ mệnh. Biden nhìn nước Mỹ đang ở trong cuộc cạnh tranh có hệ thống với
các chế độ độc đoán như Trung Quốc và Nga, để giành chiến thắng trong
thế kỷ 21.
Những chế độ độc đoán mang hy vọng siêu
cường Mỹ sẽ sa lầy ở những cuộc xung đột bất tận như ở Afghanistan.
Nhưng nay Biden đã nhận ra những thách thức trong năm 2021 không thể đối
đầu với tầm nhìn chiến lược sau vụ tấn công khủng bố năm 2001. Chính quyền
bảo thủ George W. Bush mơ mộng xây dựng quốc gia ở những vùng xa xôi trên thế
giới nên đã phung phí hàng ngàn tỷ đô la cho việc lật đổ Saddam Hussein và
chương trình dân chủ hoá Trung Đông, trong khi tại Mỹ lại thiếu các
nguồn tài trợ cho đầu tư vào y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Việc Mỹ rời
khỏi Afghanistan cho thấy Biden quyết tâm định hướng lại đường lối can
dự quân sự ở nước ngoài.
Nga và Trung Quốc tìm mọi cách can thiệp
vào cuộc bầu cử Mỹ, cho thấy đội ngũ tuyên truyền của hai chế độ này từ lâu
đã nhận ra nhược điểm của siêu cường Mỹ nằm ở các mâu thuẫn nội bộ cần
được khai thác triệt để. Vì thế, Biden xem phục hồi kinh tế, ngăn
chận đại dịch, chống biến đổi khí hậu, giảm bất bình đẳng xã hội
và giải phóng xã hội thoát khỏi tai họa phân biệt chủng tộc là những việc
ưu tiên cần cấp bách giải quyết.
Chính quyền Biden tung ra những những gói
trợ giúp trị giá nhiều ngàn tỷ đô la để phụ cấp cho người dân, người
thất nghiệp và các doanh nghiệp gặp khó khăn vì Covid-19 cũng như tăng
đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Tất cả đều thể hiện chủ trương của chính
sách ngoại giao phục vụ giới trung lưu nhằm tăng cường nền dân chủ trong
nước. Đối với Biden, một
nước Mỹ mạnh trên sân nhà là điều kiện tiên quyết cho một nước Mỹ mạnh trên thế
giới.
Ba thách thức
và ba phản ứng cho an ninh đối ngoại của Mỹ
Chiến lược an ninh – đối ngoại mới còn
được goị là Học thuyết Biden – bắt nguồn từ thực tại là ưu thế của các
cường quốc dân chủ bị đe dọa. Theo Biden, cộng đồng các quốc gia dân chủ đang
đối mặt với ba thách thức liên quan lẫn nhau.
Thách thức thứ nhất, xuất phát từ các cường quốc độc tài – Nga và đặc biệt là Trung Quốc.
Các quốc gia này đang tranh giành quyền lực của Mỹ trên khắp thế giới và đe dọa
các quốc gia dân chủ từ Đông Âu đến Đài Loan. Thách thức mà họ đặt ra mang tính
ý thức hệ và địa chính trị. Nga và Trung Quốc chủ trương làm suy yếu, phân
hoá hệ thống quốc tế hiện tại.
Trong khi Nga đang sử dụng các cuộc tấn công mạng
và thông tin sai lệch để taọ bất ổn ở các quốc gia dân chủ và biến công
dân của các quốc gia này chống đối nhau thì Trung Quốc sử dụng sức mạnh thị
trường của mình để trừng phạt những quốc gia dám lên tiếng chỉ trích họ. Điều
đáng sợ nhất là Bắc Kinh ngày càng đầu tư nhiều vào lãnh vực công nghệ,
như viễn thông 5G và trí tuệ nhân tạo, nhằm mở rộng ảnh hưởng.
Thách thức thứ hai đến từ các vấn đề xuyên quốc gia có ảnh hưởng đến sự cạnh
tranh giữa các cường quốc. COVID-19 không chỉ đơn giản là một đại dịch của
thế kỷ; mà còn là một thách thức đối với quan điểm cho rằng, các nền dân chủ
có thể ứng phó một cách hiệu quả. Tham nhũng là một tệ nạn mà Nga và Trung
cộng và các nước độc tài khác khai thác để bành trướng và làm suy yếu các đối
thủ của họ.
Thách thức thứ ba là sự sụp đổ của nền dân chủ từ bên trong. Trong những năm gần đây,
Hoa Kỳ đã chứng kiến hậu quả của việc bầu một vị Tổng thống thiếu phẩm
chất lãnh đạo và những cuộc baọ động nhằm lật ngược kết quả của một
cuộc bầu cử dân chủ. Trong toàn thế giới tự do, tâm trạng chống dân chủ và bất
mãn với các định chế nhà nước đã đạt đến cao điểm chưa từng thấy kể từ Thế
chiến thứ hai. Xu hướng này đang tác động tai hại đến sự ổn định và
đoàn kết ở các quốc gia dân chủ.
Trước ba thách thức này, học thuyết Biden đề
ra ba cách phản ứng:
Thứ nhất, Hoa
Kỳ phải tăng cường sự liên kết và khả năng đề kháng của cộng đồng dân chủ chống
lại các những đối thủ độc tài và làm sự đoàn kết dân chủ đó thật sự mang
tính toàn cầu.
Thứ hai, Hoa Kỳ phải dẫn đầu
các nền dân chủ trên thế giới trong việc giải quyết các vấn đề xuyên quốc gia
mà không quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được.
Thứ ba Hoa Kỳ phải xây dựng một
“vị thế sức mạnh” cho sự cạnh tranh toàn cầu bằng cách tái đầu tư vào các
tiềm năng cạnh tranh của chính mình và minh chứng rằng, thể chế dân chủ có
nhiều ưu điểm mang lại lợi ích cho người dân. Một nước Mỹ mạnh là điều kiện
tiên quyết cho một thế giới mạnh.
Hình thành một
Liên minh chống Nga-Trung
Chính quyền Biden từ bỏ lập trường theo chủ
nghĩa cô lập và đường lối giao dịch áp đặt của người tiền nhiệm để
khôi phục uy tín quốc tế đối với vai trò lãnh đạo của Mỹ và củng cố các liên
minh hiện có. Biden đánh
giá cao mối quan hệ với NATO và EU, và khẳng định Mỹ và Âu châu có
chung trách nhiệm giải quyết những vấn nạn xuyên quốc gia như biến đổi
khí hậu và đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền.
Tổng thống Joe Biden đã đồng ý chấm dứt cuộc
chiến thương mại với Liên minh Âu châu (EU) và những tranh cãi trong liên
minh quân sự NATO.
Mỹ ủng hộ những nỗ lực cải cách NATO
như là khuôn khổ tổ chức cho phòng thủ tập thể của khu vực Đại Tây Dương, chống
lại mọi mối đe dọa, từ mọi hướng. NATO xác nhận liên minh đang phải đối mặt với
“sự cạnh tranh có hệ thống từ các quyền lực quyết đoán và độc đoán”, cũng như
những thách thức an ninh ngày càng tăng. NATO nêu tên Nga và Trung Quốc trong số
những nguyên nhân chính khiến họ lo ngại.
NATO nhận xét, các mục tiêu và hành vi của
Trung quốc là “những thách thức mang tính hệ thống đối với trật tự quốc tế dựa
trên luật lệ” và cáo buộc Bắc Kinh tham gia vào “các chính sách cưỡng chế”,
ngấm ngầm nâng cấp lực lượng vũ trang và sử dụng thông tin sai lệch để đạt được
mục tiêu. Đối với Nga, NATO tiếp tục đối đầu với lý do Moscow có nhiều hành
vi không phù hợp với luật pháp quốc tế và khẳng định không quay lại quan hệ
trước năm 2014 với Nga cho đến khi nước này thể hiện sự tuân thủ luật pháp quốc
tế và các nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế của mình.
Nhóm G7 bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Đức, Ý, Pháp và Nhật Bản, đã đạt được sự
đồng thuận cho cách tiếp cận chung đối với Trung Quốc về thương mại và nhân
quyền. Các nhà lãnh đạo của G7 – phê bình Trung Quốc về tình trạng nhân quyền
ở khu vực Tân Cương và yêu cầu một cuộc điều tra đầy đủ về nguồn gốc của virus
corona ở Trung Quốc. Nhóm G7 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình và ổn định
trên eo biển Đài Loan, Biển Đông và Biển Hoa Đông. Nhóm G7 ủng hộ đề nghị
của Biden xây dựng một kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cạnh tranh với sáng
kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Kế hoạch này được gọi là sáng kiến Xây dựng lại Thế giới Tốt đẹp hơn (Build Back Better World –B3W)
Dự kiến xây
dựng một “NATO Á châu“ chống Trung Cộng
Kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, người Mỹ
đã là cường quốc thống trị trong khu vực Thái Bình Dương và không có ý định từ
bỏ quyền nắm giữ của họ. Trong tuyên bố về chính sách đối ngoại, Tổng thống Joe
Biden mô tả “Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh đáng gờm nhất” và cho biết Mỹ sẽ
“đối đầu những thách thức đặt ra đối với sự thịnh vượng, an ninh và các giá
trị dân chủ từ đối thủ cạnh tranh đáng gờm nhất”. Mỹ sẽ duy trì và tăng cường
các hành động để đối đầu với Trung Quốc về nhân quyền, sở hữu trí tuệ, thương mại
và công nghệ.
Hoa
Kỳ đã tập hợp một liên minh gồm Australia, Nhật Bản và Ấn Độ với
tên gọi là Quad, hay “Bộ tứ an ninh”, để điều phối các hành động
chung. Mỹ đã triển khai nhiều quân hơn ở các khu vực Đông Á và Thái Bình Dương
so với châu Âu và Trung Đông trong hai thập kỷ qua.
Biden từng tuyên bố rằng, quân đội Mỹ sẽ tăng
cường hiện diện ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để ‘ngăn chặn xung đột’,
thay vì bắt đầu một cuộc xung đột mới.
Á châu chiếm nửa số lượng quân đội Mỹ
ở nước ngoài. Mỹ có 5 căn cứ quân sự lớn ở Philippines, 40 căn cứ ở Nhật Bản
và Hàn Quốc, và Hạm đội 7 của họ – đóng tại Yokosuka, Nhật Bản – là lực lượng hải
quân lớn nhất của Washington.
Là một khu vực trọng điểm của cuộc cạnh tranh
quyền lực lớn và là nơi có nhiều đối tác quân sự của Mỹ, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) có thể sẽ nhận một vai trò thiết yếu trong cấu trúc
Ấn Độ – Thái Bình Dương. Vì vậy, đang có ý kiến cho rằng chính quyền Biden dự định xây dựng một “NATO Á châu”, bao
gồm các đồng minh và các cường quốc cùng chí hướng mà mục đích cuối cùng
là ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Sự bất đồng về
cách tiếp cận chống Nga-Trung
Tổng thống Joe Biden xây dựng kế hoạch dài
hạn để đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại. Phần lớn những gì Joe Biden đặt ra trong
chiến lược an ninh – đối ngoại là đánh dấu sự thay đổi so với người tiền
nhiệm Donald Trump cả về phong cách và nội dung.
Biden nhận thức đúng rằng, chìa khóa thành
công cuối cùng trong cuộc cạnh tranh giữa dân chủ và độc tài là Mỹ phải
liên kết với các quốc gia dân chủ. Nhưng phần lớn các quốc gia đồng
minh của Mỹ không mong muốn liên kết, hợp tác ‘cứng rắn’ chống lại Trung Quốc
hay Nga.
Nhiều quốc gia Âu châu cho rằng chủ trương
cô lập Nga là sai lầm và nguy hiểm cho an ninh Âu châu. Âu châu muốn duy
trì quan hệ chặt chẽ với Moscow, coi đây là một đối tác năng lượng quan trọng
– Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ chính của mình trên lĩnh vực kinh tế, công
nghệ và an ninh. Âu châu có thể coi Trung Quốc là một mối đe dọa an ninh quốc
gia, nhưng hy vọng sẽ hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực cùng quan tâm với Bắc
Kinh.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố “G-7
không phải là một câu lạc bộ thù địch với Trung Quốc” và Thủ tướng Đức Angela
Merkel thừa nhận rằng, Trung Quốc là đối thủ nhưng cũng là “đối tác của chúng
tôi về nhiều mặt“.
Những lo ngại này không có gì đáng ngạc
nhiên. Thương mại giữa châu Âu và Trung Quốc đang gia tăng và nhiều quốc gia chủ
chốt ở châu Á Thái Bình Dương coi Trung Quốc là đối tác thương mại, đầu tư, sản
xuất và công nghệ lớn của họ. Họ không có ý định bị kẹt giữa cái búa của Hoa Kỳ
và cái đe của Trung Quốc.
Hơn nữa sẽ không thể đạt được tiến bộ trong
việc giải quyết các vấn đề toàn cầu nghiêm trọng nhất, bao gồm biến đổi khí hậu,
đại dịch, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và khủng bố, nếu không có sự hợp
tác của các cường quốc. Việc mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc và Nga, và bảo
vệ trật tự chính trị trong nước của họ, được thúc đẩy bởi khát vọng dân tộc chủ
nghĩa hơn là khuynh hướng ý thức hệ.
No comments:
Post a Comment