Là nhà báo 50 năm cầm bút, tôi phải đau lòng nói rằng
chưa bao giờ uy tín báo chí giảm sút như hiện nay.
Hữu
Thọ
*
Bác sỹ Tom Dooley qua đời năm 1961. Mãi đến vài chục năm sau, tôi mới biết đến tác phẩm đầu tay của ông (Deliver Us from Evil) do Farrar, Straus & Cudahy xuất bản từ 1956. Đây là một tập bút ký, có hình ảnh minh hoạ đính kèm, về cuộc di cư ồ ạt (vào giữa thế kỷ trước) của hằng triệu người dân Việt. Họ ra đi chỉ với hành trang duy nhất là niềm tin vào tình người, và không khí tự do, ở bên kia vỹ tuyến.
*
Bác sỹ Tom Dooley qua đời năm 1961. Mãi đến vài chục năm sau, tôi mới biết đến tác phẩm đầu tay của ông (Deliver Us from Evil) do Farrar, Straus & Cudahy xuất bản từ 1956. Đây là một tập bút ký, có hình ảnh minh hoạ đính kèm, về cuộc di cư ồ ạt (vào giữa thế kỷ trước) của hằng triệu người dân Việt. Họ ra đi chỉ với hành trang duy nhất là niềm tin vào tình người, và không khí tự do, ở bên kia vỹ tuyến.
Rồi họ đã được tiếp
đón, hoà nhập và sinh sống ra sao nơi miền đất mới? Câu trả lời có
thể tìm được – phần nào – qua một tác phẩm khác (Sài
Gòn – Chuyện Đời Của Phố) của Phạm Công Luận, do Hội Nhà
Văn xuất bản năm 2013. Xin trích dẫn đôi ba đoạn ngắn:
“Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc
chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy
nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập
vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi
phóng sự Hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm
về những gì họ đã gặp.
Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền
chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia
đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và
chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn
chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu…
Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không
quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: ‘Thôi, chị cứ theo tôi về nhà
ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu’. Cả nhà lại
đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà
đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng.
Ông bà nói ngay với khách lạ: ‘Thầy cô cứ ở đây với
tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy
cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!’ Bà chủ còn nói là
bà không lấy một xu nhỏ.
Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt
của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ
nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng: ‘Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho
tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy
các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà
giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”
Sau này, nhà văn Thượng Sỹ
nói với tác giả bài tường thuật này: ‘Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp…
nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai cảnh gia đình lao động. Ấy cũng là tôi
hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”
“Các anh” trong câu văn
thượng dẫn – tất nhiên – là những nhà báo miền Nam, những người mà
độc giả dù có phải “nhịn ăn mà giúp” vẫn cảm thấy “vui lòng” vì
họ luôn đứng về phía những người cô thế. Miền Bắc cũng không thiếu
những người cầm bút với quan niệm tương tự: Tam Lang viết Tôi Kéo
Xe năm 1932, Ngô Tất Tố sáng tác Tắt Đèn năm 1937, Nguyên
Hồng xuất bản Bỉ Vỏ năm1938. Tác phẩm Con Trâu của Trần
Tiêu đăng từng kỳ trên báo “Ngày Nay” từ số 140 (ra ngày 10/12/1938) trước
khi được in thành sách, vào năm 1940.
“Ngày 14-12-1956, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ‘Sắc
lệnh về chế độ báo chí’, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên
miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng
gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II.
OsinBook, Westminster, CA: 2013). Bắt đầu từ đây thì sách báo hoàn
toàn nằm trong tay Nhà Nước, và những người cầm bút buộc phải đứng
cùng phe với những kẻ cầm quyền.
Ngày 21 tháng 1 năm 1960,
hai công dân Việt Nam (Nguyễn Hữu Đang và Thụy An) bị kết án 15 năm
tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội.
Vì đây là một phiên “toà kín” nên không ai biết hai nhân vật này đã
“phá hoại chính trị” ra sao, và đã “làm gián điệp” cho “thế lực thù
địch” nào – ngoài những người làm báo:
– Báo Thời Mới (21/01/1960): Năm
tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn
Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân
5 năm sau khi hết hạn giam”.
– Báo Nhân dân (21/01/1960): Trước
tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi
của chúng.
– Báo Thủ
đô Hà Nội ( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo
Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động
quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo”.
– Báo Văn học
(05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động
nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng
làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản
Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai:“Tôi đã biến nhà xuất
bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”
BÂY GIỜ MỚI NÓI THẬT
Không phải là vô cớ
mà nhà văn Võ
Thị Hảo kết luận: “Cấm báo chí tư nhân là tội ác.” Sự “ác độc”
này được duy trì và nuôi dưỡng xuyên suốt gần hai phần ba thế kỷ qua:
– Ngày 29/11/2006, T.T.
Nguyễn Tấn Dũng ban hành chỉ thị 37/2006
kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.
– Ngày 3/4/2019, T.T.
Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 362/QĐ
quy định báo chí là phương tiện thông
tin, quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Cái cách mà Đảng và Nhà Nước xử dụng
“công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng” từ hơn nửa thế kỷ qua, xem ra, đã trở thành thảm họa –
theo nhận xét của nhà báo Phan
Anh: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi, và
nhiều kẻ điều hành nó cũng như những kẻ tham gia đóng góp cho nó đa phần là một
lũ vừa ngu dốt vừa vô liêm sỉ đến cùng cực…”
Ông có nói quá chăng?
Câu trả có thể tìm được qua tiêu đề của
dăm/bẩy bản tin, xuất hiện trên “làng báo cách mạng” vào những
ngày tháng gần đây:
– Tiền Phong (30/05/2020): Bị
kích động, hơn 8.000 công nhân đình công ở Bình Dương
– VTC News (30/05/2020): Bị
kích động, 8.000 công nhân kéo xuống đường phản đối ở Bình Dương
– Dân Trí (12/06/2020): Công
an Hà Nội: Nổ súng tiêu diệt Lê Đình Kình là đúng pháp luật!
– Tuổi Trẻ (12/06/2020): Vụ
án Đồng Tâm: Các bị can nhiều lần đổ xăng thiêu chết 3 chiến sĩ công an
– Soha (13/06/2020): Việc
cảnh sát nổ súng tiêu diệt Lê Đình Kình là cần thiết, đúng quy định
– Thanh Niên (13/06/2020): Đề
nghị truy tố 29 người trong vụ tẩm xăng thiêu chết 3 chiến sĩ ở Đồng Tâm
Tuổi
Trẻ & Thanh Niên sa đọa tới cỡ đó lận
sao? Cái được mệnh danh là những nhà báo cách mạng, hiện nay, chả
lẽ chỉ rặt là một phường vô lại?
Tưởng Năng Tiến
6/2020
6/2020
No comments:
Post a Comment