TS.
Phạm Đình Bá
19/06/2020 06:02 | Posted by bxvn
Tranh luận về đàn áp báo chí nên nhấn mạnh vào đóng
góp của các nhà báo dấn thân để bảo vệ nhân quyền và đòi hỏi những người lạm
quyền phải chịu trách nhiệm về các vi phạm quyền lợi của dân.
Gần đây, nhà nước đã bắt
giam các nhà báo của Hội Nhà báo Độc ập Việt Nam như ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn
Tường Thụy, Phạm Thành, và Lê Nguyễn Minh Tuấn với cáo buộc là các nhà báo này
có phần nào “… tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (1). Trong thông cáo báo chí về việc này, Hội
Nhà báo Độc lập nhấn mạnh rằng Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam có ghi là “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Bài này tóm lược các bài
nghiên cứu gần đây về đàn áp báo chí ở nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu cái
nghịch lý trong hành vi trái hiến pháp của nhà nước Việt Nam.
Các nghiên cứu về đàn áp báo
chí
Hughes và Vorobyeva đã
tìm cách giải thích cho sự gia tăng giết chết các nhà báo trong vòng 25 năm
qua, bao gồm các mối nguy hiểm của phóng sự chiến trường và các điều kiện không
an toàn ở các nước với khác biệt về mức độ dân chủ (2).
Các tác giả này phân tích
1812 vụ giết các nhà báo từ năm 1992 đến 2016. Họ thấy rằng các quốc gia có chế
độ chính trị hỗn hợp pha trộn các yếu tố dân chủ và độc quyền tạo ra bối cảnh
nguy hiểm nhất cho các nhà báo, trong khi một cấu hình không gian cụ thể trong
các quốc gia đó, chủ nghĩa độc đoán địa phương, làm rõ logic của các vụ giết
người. Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy hầu hết các nhà báo đã chết ở các quốc gia
nơi các quy tắc và tập quán dân chủ chính thức ở cấp quốc gia khuyến khích báo
cáo điều tra khiến cho các nhà báo làm việc tích cực để phanh phui các vụ việc
tại các đấu trường địa phương nơi những người nắm giữ quyền lực có động lực để
đàn áp mạnh mẽ báo chí.
Ở cấp độ tổng hợp, nghiên
cứu này chỉ rõ hầu hết các nhà báo bị giết đã đưa tin như chính trị, tham
nhũng, nhân quyền hoặc tội phạm, có thể vạch trần hành vi sai trái của các
chính trị gia địa phương và / hoặc những người nắm giữ quyền lực thực tế khác.
Các nhà báo thường ít gặp nguy hiểm hơn nhiều khi họ điều tra và tường thuật về
các vụ việc trong kinh doanh, thể thao hoặc văn hóa, mặc dù một số nhà báo vẫn
bị giết đã chuyên về những đề tài đó.
Charles nghiên cứu bạo lực chống báo chí ở Colombia (3). Đây là một quốc
gia mà bạo lực là một phần vốn có của các cấu trúc nền tảng cho việc mất trật tự
xã hội của các khu vực trong nước này. Thông qua các cuộc phỏng vấn với bốn
thành viên của nhóm bán quân sự Colombia khi các nhóm này đã tấn công liên tục
vào các nhà báo, Charles lập luận rằng bạo lực chống báo chí có thể cùng tồn tại
bên cạnh ý thức tôn trọng báo chí. Hiện tượng hỗn hợp này đề xuất mối liên hệ
trực tiếp giữa phong cách tường thuật của nhà báo và mức độ rủi ro mà họ có thể
gặp phải, cũng như giữa các quyết định của các nhóm bán quân sự để giết hoặc đe
dọa các nhà báo và mức độ thực thi các quyết định này. Có ý kiến cho rằng bạo lực
chống báo chí được kết nối với điều kiện dân chủ và kinh tế trong vùng mà các
nhóm bán quân sự kiểm soát. Trong những trường hợp này, bạo lực chống báo chí
được trình bày như một công cụ quản trị tội phạm để duy trì trật tự nơi các
nhóm bán quân sự điều hành và các nhóm này dùng bạo lực với báo chí để bảo vệ
các hành động nổi dậy tàn bạo của họ. Phân tích như vậy vượt ra ngoài việc xem
xét các ý nghĩa chung chung của bạo lực chống báo chí để cung cấp một sự hiểu
biết nhiều sắc thái hơn về các yếu tố quyết định mang tính khiêu khích, cân nhắc
và cấu trúc, làm nền tảng cho biên độ bạo lực ở Colombia.
Repnikova cho rằng chúng
ta biết rất ít về các phương thức tranh chấp không mang lại kết quả dân chủ
ngay lập tức, nhưng thúc đẩy các chế độ độc tài theo nhịp độ thay đổi dài hạn,
dẫn đến gia tăng hay giảm đi mức độ độc tài (4). Repnikova đưa ra giả thuyết về
các hoạt động như vậy thông qua một nghiên cứu so sánh hành vi của các nhà báo ở
Trung Quốc và Nga. Dựa trên các cuộc phỏng vấn sâu và quan sát người tham gia
trong bài nghiên cứu ở hai quốc gia, tác giả trình bày hai loại hoạt động tiêu
biểu: đối kháng ngầm trong hệ thống độc tài, được thực hiện trong quan hệ đối
tác với nhà nước, và đối kháng và thách thức bên ngoài được triển khai để phản
đối hệ thống độc tài.
Đối kháng ngầm trong hệ
thống độc tài - Vào tháng 1 năm 2013, các nhà báo quan trọng của Trung Quốc làm
việc cho đơn vị tin tức nổi tiếng Quảng Châu, Southern Weekly, đã phản đối kiểm
duyệt địa phương của một bài xã luận trong năm mới (4). Cuộc biểu tình, ban đầu
được báo chí phương Tây mô tả là đòi tự do báo chí, thật ra không có nhiều tham
vọng thực sự đòi hỏi tự do báo chí. Các nhà báo bất bình đã tránh liên kết với
công chúng. Họ nhanh chóng đàm phán bí mật với chính quyền và trở lại làm việc
như thường lệ. Cuộc biểu tình lấy cảm hứng từ tờ báo có lưu hành rất lớn nhưng
các đối kháng không trở nên công khai. Ngược lại, các nhà báo chỉ nhắm vào một
số cách kiểm duyệt, nhấn mạnh rằng ngay cả những sự kiện công khai nhất về
tranh chấp báo chí ở Trung Quốc cũng có tính chất khuất phục, xuất hiện và mờ dần
trong hệ thống cai trị độc tài ở đây.
Đối kháng công khai để phản
đối hệ thống độc tài - Vào mùa đông 2011 2011, các nhà báo và trí thức tự do
Nga đã tham gia và khởi động phong trào phản kháng lớn nhất mà Nga đã chứng kiến
từ những năm 1990 (4). Phong trào “Băng trắng” đã thu hút hàng chục ngàn người
phản đối cuộc bầu cử quốc hội gian lận và phản đối tham vọng của Putin để làm tổng
thống lâu dài. Các nhà báo quan trọng nổi tiếng từ các phương tiện truyền thông
đã huy động công chúng bằng cách tổ chức quyên góp và kiến nghị trên phương tiện
truyền thông xã hội và không ngừng đưa tin về các sự kiện, mà phần lớn các sự
kiện này bị kiểm duyệt trong các cổng tin tức chính thống. Mặc dù Putin
đã trở lại vị trí tổng thống của mình, phong trào vẫn là một dấu ấn quan trọng
về thái độ đối kháng và thành lập tiếng nói đối trọng ở Nga. Khả năng của tầm đối
kháng này vẫn không hoàn toàn bị chế ngự bởi chính phủ độc tài của Putin.
Salaza nghiên cứu tại sao
một số tờ báo vẫn đối kháng trong bối cảnh đàn áp chống báo chí trong khi những
tờ báo khác thì từ bỏ đối kháng? Có lập luận cho rằng tấn công nhà báo tạo ra
hiệu ứng răn đe đối với vai trò giám sát của báo chí (5). Tuy nhiên, các bằng
chứng cho thấy báo chí vẫn đối kháng trong môi trường thù địch dường như thách
thức các lập luận này. Salazar khám phá mối quan hệ giữa sự đàn áp bạo lực của
chính phủ và chức năng quan trọng của báo chí. Sử dụng một bộ dữ liệu gốc của
các tờ báo Mexico địa phương từ năm 2011 đến 2013, tác giả xem xét các tác động
trực tiếp của bạo lực trên các tiêu đề trên trang nhất. Tác giả nhận thấy rằng
trong khi sự đàn áp có tác dụng làm giảm đi mức đối kháng trong vai trò giám định
của báo chí, hiệu quả cuối cùng phụ thuộc vào cấu hình của các liên kết mà báo
chí tái lập ở địa phương, được xem xét ở đây là các tổ chức phi chính phủ, các
đảng đối lập và các nhà xuất bản báo chí.
Diễn dịch về kết quả từ 4 bài
nghiên cứu trên
Dự án 88 cho “Tự do Phát
biểu ở Việt Nam” liệt kê 181 nhà hoạt động dân sự đang bị đe dọa, 278 nhà hoạt
động dân sự đang bị giam cầm, bao gồm 77 nhà hoạt động nữ và 56 nhà hoạt động từ
các dân tộc thiểu số (6). Trường hợp của nhà báo Lê Anh Hùng là một ví dụ điển
hình (7). Lê Anh Hùng phát hiện ra một đường dây buôn ma túy có dính líu tới
nhiều quan chức cao cấp ở Quảng Trị. Anh đã viết bài và gửi đơn thư tố giác đi
nhiều nơi, nhưng các cơ quan tố tụng của Việt Nam, từ các cơ quan địa phương tới
trung ương đều không thực hiện đúng trình tự các thủ tục tố giác tội phạm. Trái
với các kết quả ở nghiên cứu số 1 ở trên, ở Việt Nam có sự nhất quán về vi phạm
luật lệ từ trung ương tới địa phương, điều này có thể phát xuất từ liên kết mạng
nhện trải dọc từ trên xuống dưới.
Các hành vi đàn áp nhà
báo ở Việt Nam cũng tương tự như hành động của các nhóm bán quân sự ở Columbia
khi các nhóm này dùng bạo lực với báo chí như là một công cụ quản trị để duy
trì trật tự xã hội. Tương tự như kết quả của bài nghiên cứu số 2 ở trên, khoa
chính trị học và xã hội học ở Việt Nam cần nghiên cứu để cung cấp một sự hiểu
biết sâu sắc hơn về các yếu tố, cân nhắc và cấu trúc trong quyết định và thời
điểm đàn áp các nhà báo.
Mức độ kiểm soát của nhà
nước Việt Nam với các phương tiện truyền thông có thể ở giữa mức độ kiểm soát
thấp của chính phủ Putin ở Nga và ở mức độ kiểm soát nghiêm ngặt ở Trung Quốc.
Tương tự như kết quả của bài nghiên cứu số 3 ở trên, các nhà báo ở Việt Nam có
khả năng đóng góp để tạo dựng một tiếng nói đối trọng để vạch trần những bất
công mà người dân phải thường xuyên chịu đựng từ cách quản lý thiếu hiệu quả của
nhà nước.
Bài học từ nghiên cứu số
4 ở trên cho thấy nhà báo ở Việt Nam đang thực hiện vai trò giám sát bằng cách
tường thuật tham nhũng, bất công và vi phạm luật pháp trong cách làm việc của
cán bộ. Sự hiện diện của các diễn đàn ngôn luận khác nhau có thể là chứng cứ
cho việc liên kết của dân với người làm báo.
Tranh luận về đàn áp báo
chí nên nhấn mạnh vào đóng góp của các nhà báo dấn thân để bảo vệ nhân quyền và
đòi hỏi những người lạm quyền phải chịu trách nhiệm về các vi phạm quyền lợi của
dân. Cần nỗ lực để kêu gọi các tổ chức quốc tế để nói với nhà nước Việt Nam là
họ sẽ gánh lấy hậu quả cô lập qua các quan hệ quốc tế nếu họ đàn áp báo chí. Mặc
dù sự đàn áp báo chí có thể ngăn cản báo chí thực hiện vai trò giám sát trong
khung xã hội, nhưng hiệu quả cuối cùng phụ thuộc vào cấu hình của các liên kết
báo chí thiết lập tại địa phương nơi các nhà báo hoạt động, bao gồm người đọc,
các tổ chức phi chính phủ và các nhóm có thể ủng hộ thay đổi. Vai trò của xã hội
dân sự trong hoạt động của báo chí cần được hiểu trong bối cảnh chính trị địa
phương.
----------------
Nguồn:
1.
VNTB. Thông cáo báo chí của
Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam. 2020; https://vietnamthoibao.org/vntb-thong-cao-bao-chi-cua-hoi-nha-bao-doc-lap-viet-nam/.
2.
Hughes S, Vorobyeva Y.
Explaining the killing of journalists in the contemporary era: The importance
of hybrid regimes and subnational variations. Journalism. 2019.
3.
Charles M. Why are
journalists threatened and killed? A portrait of neo-paramilitary anti-press
violence in Colombia’s Bajo Cauca. Journalism. 2020.
4.
Repnikova M. Contesting
the state under authoritarianism: Critical journalists in China and Russia.
Comparative Politics. 2018;51(1):41-60.
5.
Salazar G. Strategic
Allies and the Survival of Critical Media under Repressive Conditions: An
Empirical Analysis of Local Mexican Press. International Journal of
Press/Politics. 2019;24(3):341-362.
6.
Project 88. Database of
Persecuted Activists in Vietnam. 2020; https://the88project.org/database/.
7.
VNTB. Thư ngỏ yêu cầu TBT
Nguyễn Phú Trọng trả tự do cho Lê Anh Hùng. 2020; https://vietnamthoibao.org/vntb-thu-ngo-le-anh-hung/.
8.
P.Đ.B.
VNTB gửi BVN
No comments:
Post a Comment