Lưu
Diệc Vũ
Nguyễn Trung Kiên, lược dịch
05/06/2020
Vài giờ trước buổi bình
minh ngày 4 tháng 6 năm 1989, theo mệnh lệnh của chính phủ Trung Quốc, 200.000
binh lính đã bao vây Bắc Kinh rồi tiến vào trung tâm thành phố. Xe tăng và xe bọc
thép của quân đội đã đi trước dọn đường, nghiền nát các chướng ngại vật, bắn
vào đám đông, hạ gục con người như cỏ dại.
Được phê chuẩn từ cấp
lãnh đạo cao nhất, vụ thảm sát mà họ đã gây ra trong và xung quanh Quảng trường
Thiên An Môn, chống lại những người biểu tình bất bạo động từ mọi tầng lớp
trong dân chúng, đã làm chấn động cả thế giới.
Hàng triệu người dân
Trung Quốc bình thường và đầy mơ mộng đã biểu tình đòi dân chủ trong nhiều tuần
trước đó, tại hàng chục thành phố trên khắp Trung Quốc, bao gồm Thành Đô – nơi
tôi đang sinh sống, và là thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên, quê hương tôi. Ngay lập tức,
những người biểu tình đã bị phân rã như những bầy chim đầy sợ hãi.
Lệnh bắt người lan tràn
khắp đất nước. Hàng trăm nghìn người đã chạy trốn ra nước ngoài và trở thành
các Hoa kiều tị nạn chính trị. Trong khi đó, hàng chục nghìn người khác – hầu hết
thuộc tầng lớp lao động, vốn có rất ít mối liên hệ với những người lãnh đạo
phong trào dân chủ này – đã bị tống vào tù và trở thành chính trị phạm.
Ba mươi năm sau, chế độ
gây ra vụ thảm sát đó vẫn đang cầm quyền. Cho đến nay, vẫn chưa có ước tính
đáng tin cậy về số người thiệt mạng trong ngày Bốn tháng Sáu đó. Con số chính
thức của chính quyền về những người “vô tình bị thương” là 300 người hoặc ít
hơn. Các cuộc khảo sát được tiến hành tại thời điểm đó bởi Hội Chữ thập đỏ
Trung Quốc và các tổ chức thuộc phong trào sinh viên tại 100 bệnh viện quanh
khu vực Bắc Kinh cho thấy khoảng 3.000 người đã bị giết. Các tài liệu được giải
mật gần đây từ chính phủ Hoa Kỳ và Liên hiệp Anh cho thấy số người bị giết có
thể lên tới hơn 10.000 người, số người bị thương thậm chí còn nhiều hơn.
Làm thế nào để chúng ta
có thể tìm thấy họ, những người đã nằm xuống? Vợ chồng ông bà Khương Bồi Khôn
và Đinh Tử Lâm, sau khi con trai của họ bị giết ở gần quảng trường, đã liên lạc
với hơn 200 thành viên của gia đình nạn nhân trong ngày Bốn tháng Sáu này, và
khởi động phong trào ‘Các Bà Mẹ Thiên An Môn’. Trong ba mươi năm qua, họ chỉ có
thể thu thập danh sách 202 người từ tất cả những người thiệt mạng. Tôn Lập
Dũng, người đã trốn sang Úc, đã lập danh sách, một cách đầy khó khăn, và chỉ thống
kê được vài trăm người đã bị cầm tù sau ngày Bốn tháng Sáu đó.
Rồi nhiều năm tháng lại
tiếp tục trôi đi. Những tên đồ tể đang chiến thắng. Các chu kỳ của sự đổ vỡ và
đau khổ về đạo đức đầy hổ thẹn đã liên tục trồi lên tụt xuống sau cuộc đàn áp
này: những tên đồ tể đó đã và vẫn đang tạo ra quá khứ, hiện tại và tương lai của
chúng ta. Những tên bạo chúa này dường như lúc đầu đã giết người với đôi bàn
tay run rẩy. Sau đó, khi chúng giết nhiều người hơn và nợ máu của chúng với
nhân dân ngày một tăng thêm, thì việc giết người trở nên dễ dàng hơn, và chúng
cảm thấy được tự do để làm tất cả những gì chúng muốn.
Nền kinh tế Trung Quốc đã
tăng trưởng với tốc độ điên cuồng. Mỗi làn sóng giết người mới dường như mang lại
sự tăng trưởng kinh tế lớn trong giai đoạn tiếp theo. Một lý thuyết thời thượng
cho rằng sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy cải cách chính trị, và đến lượt
chúng, các cuộc cải cách chính trị này sẽ buộc những tên bạo chúa đó phải tiến
tới nền dân chủ.
Đó là lý do tại sao các lệnh
trừng phạt kinh tế của phương Tây đối với Trung Quốc sau ngày Bốn tháng Sáu đó
đã sớm biến mất, với ngày càng nhiều quốc gia chờ đến lượt để thực hiện các
giao dịch kinh doanh với những tên đồ tể đó. Họ đã làm điều này ngay cả khi những
tên đồ tể đó liên tục bỏ tù và giết người, ngay cả khi các bể máu mới tiếp tục
tràn qua những bể máu cũ. Chế độ chuyên chế mới thay thế chế độ chuyên chế cũ.
Để sống sót và kiếm sống một cách khổ sở giữa chế độ chuyên chế đẫm máu như vậy,
mọi người dân đã học cách sống mà không phải đối diện với những sự tự truy vấn
về đạo đức.
Sau sự kiện Thiên An Môn,
khi mọi người dân giả vờ mất trí nhớ và chạy đua để kiếm tiền, thì những làn
sóng đàn áp tàn bạo đã tiếp tục tấn công các gia đình của những người biểu tình
vốn đã bị giết chết hoặc đang bị cầm tù, cùng với những người tập luyện các môn
khí công – các thành viên phong trào Pháp Luân Công, các đảng viên của Đảng Dân
chủ Trung Quốc, những dân oan đang kêu gào chính phủ phải giải quyết sự bất
bình của họ đối với các quan chức địa phương, những người nông dân bị tước đoạt
đất đai, những người công nhân bị sa thải, các luật sư bảo vệ nhân quyền, những
tín đồ của các giáo phái ngầm, các nhà bất đồng chính kiến, các gia đình của những
nạn nhân trong vụ động đất ở Tứ Xuyên, những người đã ký Linh Bát Hiến Chương,
những người ủng hộ Cuộc Cách Mạng Cam trên mạng Internet, cùng với những người
đấu tranh đòi quyền tự trị ở Tây Tạng, Nội Mông và Tân Cương. Trong khi đó, những
người biểu tình trong ngày Bốn tháng Sáu đó, cuối cùng, đã được thả ra khỏi nhà
tù, trong lặng lẽ, từng người một, mà không ai để ý.
Người dân Trung Quốc đã
trở thành nô lệ, đang chờ đợi và luôn sẵn sàng chịu đựng sự cướp bóc và chà đạp.
Và Đảng Cộng sản nói với phương Tây: “Hãy đến với chúng tôi, xây dựng nhà máy,
thành lập doanh nghiệp, xây dựng nhà cao tầng và thiết kế mạng máy tính. Miễn
là không bàn về nhân quyền hoặc lựa chọn sự đối kháng chính trị, bạn có thể làm
bất cứ điều gì mình muốn. Ở đất nước của bạn, bạn phải tuân theo các luật lệ và
đối phó với dư luận. Bạn không được tự do làm theo ý mình. Bạn nên đến đây và
làm ăn với chúng tôi. Hãy đến đất nước của chúng tôi và cùng thực hiện những điều
dơ bẩn với chúng tôi. Xin hãy tiếp tục hành động và ngăn dòng chảy của các con
sông, làm vấy bẩn bầu không khí, nguồn thức ăn và nguồn nước ngầm của chúng tôi
theo mong muốn của bạn. Hãy sử dụng lao động giá rẻ của chúng tôi. Làm cho nhân
dân chúng tôi làm việc ngày đêm. Giam cầm chúng trên các dây chuyền lắp ráp.
Vào thời điểm hầu hết mọi người dân Trung Quốc mắc phải các loại bệnh ung thư
khác nhau trong cơ thể, và cả trong tâm trí lẫn nhân cách của họ, bởi tất cả những
ô nhiễm này, bạn sẽ kiếm được nhiều tiền hơn, tại bãi rác lớn nhất thế giới,
nơi sẽ luôn có nhiều cơ hội kinh doanh hơn bất cứ nơi nào khác trên toàn cầu”.
Nhân danh thương mại tự
do, các công ty phương Tây đã thực hiện nhiều âm mưu với những tên đồ tể này.
Chúng đã tạo ra một bãi rác. “Hệ thống các giá trị rác rưởi” với lợi nhuận trên
hết của chúng đã gây ảnh hưởng hơn bao giờ hết. Người dân Trung Quốc đều biết rằng
những kẻ đồ tể đã có tiền và đã có những lối thoát luôn sẵn sàng cho chúng, và
cuối cùng chúng sẽ từ bỏ quê hương vốn đã bị găm đầy vết sẹo và đang bị tan vỡ
của chúng. Tất cả bọn chúng sẽ di cư đến phương Tây để tận hưởng vùng đất tinh
khiết tràn đầy ánh sáng Mặt Trời, sự tự do, sự bình đẳng và tình huynh đệ.
Chúng thậm chí có thể cầu nguyện trong một nhà thờ ở đó, và cầu nguyện với
chính đức Jesus đó – người bị đóng đinh vào Thập tự giá trong thời cổ đại bởi
những tên bạo chúa – nhằm cứu chuộc lại tội ác của chúng. Và một khi người dân
Trung Quốc nhận ra rằng các quan chức và doanh nhân tham nhũng, những điển hình
vô liêm sỉ của “những kẻ chiến thắng ăn cả”, thì chúng sẽ không phải đối mặt với
công lý hay nhận được sự ghẻ lạnh dành cho chúng ở phương Tây, và phương Tây sẽ
bắt chước chúng. Chẳng bao lâu, mọi nơi trên thế giới sẽ đầy những kẻ Trung Quốc
lừa đảo vừa ruồng bỏ quê hương mình – một bầy châu chấu sẽ thổi bay mặt đất và
bầu trời, mang theo thảm họa tới bất cứ nơi nào chúng đến.
Những đứa trẻ sinh năm
vào 1989 giờ đã trưởng thành. Theo các tư tưởng về sự hài hòa âm dương của Phật
giáo Trung Quốc, chúng có thể là sự tái sinh của những người đã chết trong ngày
Bốn tháng Sáu đó, mặc dù hoàn toàn không có ký ức về tiền kiếp của mình. Mặt
khác, hàng chục vạn chiến binh quả cảm trên đường phố chống lại sự chuyên chế,
vốn đã bị tống vào tù năm 1989, dường như chỉ là một nắm cát ném xuống đại
dương xoáy lốc gồm hơn một tỷ dân.
***
“Mọi thứ đều đang trở nên
hỗn loạn. Người phụ nữ mà cậu từng biết đã thay đổi; nàng hoàn toàn tập trung
vào việc phấn đấu cho tương lai. Sau đó, lại đến vấn đề việc chăm sóc con gái của
chúng tớ và sự ‘không-có-gì-để-kể-với-bạn-bè’ của tớ. Vợ tớ phàn nàn rằng nàng
đã hơn ba mươi tuổi mà vẫn không có nổi chốn dung thân – nơi nàng có thể gọi đó
là ‘nhà mình’. Nàng nói tớ phải tìm cách kiếm tiền để nuôi con gái. Nàng coi
thường quá khứ của chính chúng tớ – sự dũng cảm của nàng thời còn là nữ sinh.
Tiếng sáo của tớ khiến nàng phát điên, vì vậy tớ không không thổi nữa. Ở đâu đó
trong sâu thẳm tâm hồn mình, tớ vẫn yêu nàng, nhưng tớ không thể yêu nàng theo
cách nàng cần. Thỉnh thoảng, khi ở nhà một mình, những cuộc đấu tranh tư tưởng
nảy lửa diễn ra trong đầu tớ hàng giờ: “Mi là kẻ thua cuộc!”. “Mi là chồng cô ấy!”.
“Mi là cha của con gái mi!”. “Em chỉ muốn tiền! Anh chỉ muốn cách mạng!”.”
Bức thư này đề ngày 26
tháng 3 năm 1994, gửi một người bạn cũ của tôi, Lưu Hà, người sau này sẽ kết
hôn với chính trị phạm nổi tiếng Lưu Hiểu Ba. Đêm trước đó, tôi ngồi trên ban
công lạnh cóng của mình hàng giờ. Tôi lấy cây sáo trúc của mình ra thổi, nhưng
thấy chán nản kinh khủng, đến nỗi tôi không thể nghe được thanh âm của nó. Tôi
chỉ khiến mình bị cảm lạnh.
Ngay sau đó, vợ chồng tôi
đã cãi nhau dữ dội, rồi ly hôn. Tôi trở về nhà cha mẹ tôi ở phía bên kia thị trấn,
nơi họ chăm sóc tôi như thể tôi vừa mới lại trở thành một đứa trẻ. Phần lớn
trong thời gian này, tôi chỉ có một vài xu lẻ trong túi, thậm chí không đủ để rời
khỏi căn hộ. Anh trai tôi, Đạt Mậu, đã cho tôi vay 10.000 nhân dân tệ, tất cả đều
được tôi chuyển cho nàng để hỗ trợ nuôi con. Con gái tôi bây giờ đã hai mươi mốt
tuổi. Trong hai mươi mốt năm đó, hai cha con tôi đã dành cho nhau chưa nổi hai
tháng.
Trước sự kiện Thiên An
Môn, tôi là một nhà thơ nổi loạn, hay thay đổi và đầy bốc đồng, người thích lựa
chọn những cuộc đối đầu và kể những câu chuyện cao siêu. Tôi đã giành được hơn
hai mươi giải thưởng văn học nhà nước, và tôi nghĩ rằng một ngày nào đó tôi sẽ
trở thành một nhà văn nổi tiếng thế giới. Nhưng nhuận bút của tất cả những bài
thơ tôi chỉ tương đương mức tiền công trả cho một tù nhân. Cái nhìn thi ca đầy
thơ mộng đó đã bừng lên trên khuôn mặt tôi. Năm 1990, tôi bị bắt vì đọc một bài
thơ về vụ thảm sát Thiên An Môn, và tôi đã ở tù gần bốn năm. Ngay cả sau khi
tôi được thả ra, tôi vẫn là một kẻ lang thang, một kẻ vô gia cư ngay trên quê
hương mình.
Vụ đại thảm sát ngày Bốn
tháng Sáu đó là một bước ngoặt. Trước đó, mọi người dân đều yêu đất nước mình;
sau đó, họ chỉ yêu tiền. Trái tim của nhân dân ngày càng lạnh giá. Là một cựu
chính trị phạm không một xu dính túi, tôi có thể nói rằng mọi người đều coi thường
tôi. Tôi cảm thấy như thế giới của tôi đã bị đảo lộn chỉ sau một đêm. Khi tôi về
nhà và gặp lại vợ, cha mẹ, anh chị và những người bạn cũ, lần đầu tiên kể từ
khi vào tù, họ có vẻ bình thản, và không có bất kỳ màn chào đón tình cảm nào mà
bạn vốn vẫn đọc được trong sách. Sinh ra hơn nửa năm sau khi tôi đi tù, con gái
tôi đã lên ba. Vợ tôi sợ cái đầu cạo trọc của tôi và bắt đầu khóc. Nàng trốn
sau cánh cửa và khóc thút thít, nhổ nước bọt vào tôi.
Các tù nhân, theo định
nghĩa, tất cả đều cô độc. Nhiều bạn tù của tôi đã không nhìn thấy người phụ nữ
nào trong nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ. Mọi tù nhân đều nói về tình dục vào mọi
lúc, ngay cả với các chính trị phạm luôn đầy ắp các lý tưởng tự cho là cao cả của
họ. Đó là chủ đề mặc định của chúng tôi trong các cuộc trò chuyện.
Sự khác biệt duy nhất giữa
thường phạm và chính trị phạm là khi thường phạm làm tình đồng giới đồng loạt với
nhau trong phòng giam, thì các chính trị phạm phải giả vờ như họ không chú ý hoặc
lặng lẽ lánh đi. Tôi đã từng dùng chung chiếc giường tầng với một người đàn ông
phạm tội buôn người. Bất cứ khi nào các tù nhân tiến hành bữa tiệc sex đặc biệt
với nhau vào buổi tối, anh sẽ tự mình thủ dâm. Thỉnh thoảng anh làm rung cả cái
giường, và tôi sẽ gõ mạnh lên khung giường sắt để phản đối. Anh sẽ hét lại với
tôi mà không bỏ lỡ một nhịp thủ dâm nào: “Mày không biết à? Thủ dâm hoặc đánh mất
cực khoái!”
Sau đó, tôi bị các tù
nhân đem ra làm trò cười, nhưng sau khi được thả, tôi nhận ra rằng mình thực sự
đã đánh mất ham muốn nhục dục. Nó bộc lộ ngay trong cuộc ‘sinh hoạt’ đầu tiên với
vợ tôi sau cuộc chia ly dài; trên thực tế, cuộc đó đã kết thúc trước khi nó thực
sự bắt đầu. Nàng đứng dậy, mặt lạnh như băng, và nói: “Em không thực sự ham muốn,
nhưng vì anh vừa về đến nhà, em nghĩ không có cách nào để tránh được việc đó”.
Cái nhìn trống rỗng trên
khuôn mặt tôi che giấu sự hỗn loạn trong tôi. Tôi nhanh chóng mặc quần áo. Cuộc
sống sau khi ra tù hóa ra là một địa ngục trần gian. Lối thoát cho cuộc hôn
nhân của một người ham muốn tình dục vô độ với một người rối loạn chức năng
tình dục kèm theo quá khứ chính trị bị nghi ngờ là gì? Những người bạn cũ của
tôi sẽ trả lời điện thoại ngay lần đầu tiên tôi gọi, nhưng họ không bao giờ trả
lời lần thứ hai. Ngay cả những người đến mời tôi ăn tối một cách đầy trân trọng
sau đó cũng sẽ biến mất.
Lúc đó, vợ tôi đang là
biên tập viên của một tuần san giải trí được xuất bản bởi một hộp đêm Thành Đô.
Nàng sợ rằng cái đầu trọc của tôi quá dễ nhận thấy – đó là dấu hiệu của một cựu
tù nhân, vì vậy nàng đã mua cho tôi một bộ tóc giả và buộc tôi phải đeo nó. Có
lần tôi đến hộp đêm đó để đón nàng vì trời đã muộn và tôi lo nàng sẽ không an
toàn khi về nhà. Ngay khi vào hộp đêm, tôi tình cờ gặp hai người quản lý, một
béo một gầy, cả hai đều say xỉn, vốn là hai người bạn cũ của tôi, đều từng là
nhà thơ. Cùng nhau, chúng tôi đã điều hành một tạp chí thơ ngầm để chọc ngoáy Đảng
một cách hài hước. Tất nhiên cả hai đều có lý tưởng và yêu nước hơn tôi trong
các cuộc biểu tình của sinh viên năm 1989, khi công khai đọc những bài thơ chống
tham nhũng của họ trong khuôn viên trường đại học. Đêm ngày Bốn tháng Sáu đó, họ
đã ở Quảng trường Thiên Phủ tại Thành Đô, mang thức ăn và nước uống cho các
sinh viên đang giao tranh với binh lính trong quân đội và đưa những người bị
thương đến bệnh viện.
Tại hộp đêm, họ nhận ra
tôi ngay. Gã béo chộp lấy bộ tóc giả của tôi và kêu lên: “Đây là cách mà kẻ phản
cách mạng này đang ngụy trang ư?”. Gã gầy gào lên: “Đưa một cô gái lên cho nhà
phản cách mạng nào!”. Tôi toát mồ hôi hột. Cả hai cùng cười ầm lên và kéo tôi
vào một phòng riêng để uống rượu.
Ba nữ tiếp viên bước vào
và khởi động máy hát karaoke. Gã béo rút ví và đưa cho họ tờ 100 tệ tiền boa, hệt
như hắn đang phát kẹo. Gã gầy hỏi tôi: “Cậu còn làm thơ không?”
“Tôi không thể làm được nữa.
Tôi đoán là tôi không cảm thấy hứng thú”, tôi trả lời.
“Ồ, nếu cảm thấy như vậy,
cậu hãy thử thay đổi cảm hứng và viết những bài thơ ca ngợi những hộp đêm, cuộc
sống về đêm tại Thành Đô, những phụ nữ gợi tình và món lẩu cay”, hắn khuyên. “Bọn
mình có thể in những bài thơ của cậu bằng bút danh trên tờ tạp chí của bọn
mình, tờ tạp chí mà vợ cậu đang biên tập đó”.
Tôi chết lặng. “Các cậu
đã từng là những nhà thơ nghèo khổ, thậm chí không thể mua nổi một chai rượu
ngon. Các cậu kiếm đâu ra tiền để kinh doanh ở đây thế? Chỉ riêng tiền thuê nhà
đã phải đến hàng trăm nghìn nhân dân tệ mỗi năm rồi ấy chứ”.
“Chỉ cần thực hiện một
khoản vay và cậu có thể chi tiêu tất cả những gì mình muốn”, gã béo nói. “Có một
người tôi quen đang làm trong ngân hàng, hắn sẽ lấy tòa nhà và các thiết bị làm
tài sản thế chấp. Thật không may, các cô gái không được coi là tài sản thế chấp”.
“Người nghèo không phải
là những người theo chủ nghĩa xã hội kể từ khi Đặng Tiểu Bình thúc đẩy cải cách
kinh tế trong chuyến hành phương Nam nổi tiếng hồi năm 1992”, gã gầy nói thêm.
“Biểu tình để ủng hộ nền dân chủ sẽ không đưa chúng ta đến đâu cả. Tiền sẽ thực
hiện điều đó”.
***
Cuộc sống trước ngày Bốn tháng
Sáu đó đã trở thành một ký ức xa vời. Những tháng ngày ấy đã trôi đi đầy lãng
phí. Tôi trôi dạt vô định, thổi sáo trong các quán bar và trên đường phố để kiếm
tiền, và viết hồi ký về đời tù của mình bất cứ khi nào rảnh rỗi. Tôi hình dung
mình là người đàn ông xui xẻo nhất vẫn còn sống. Ngay cả người ‘đặc tình’ bí mật
cho cảnh sát chuyên theo dõi tôi cũng cảm thấy tiếc cho tôi. Một ngày nọ, hắn đến
thăm tôi, thông báo rằng hắn đã tìm thấy một cửa hàng trống, và sẽ sắp xếp cho
tôi mở một cửa hàng quần áo ở đó. Tôi nói tôi sẽ không biết mua quần áo ở đâu
chứ đừng nói đến việc bán chúng.
Hắn hỏi lại: “Ý cậu là
gì, cậu thậm chí không biết làm cả những điều đơn giản ư? Tôi sẽ đưa cậu đến chợ
Ao Sen để lấy hàng giả, tại ga tàu hỏa Cửa Bắc. Cậu có thể dự trữ đống hàng giả
và nhãn mác của quần áo có thương hiệu, với số lượng lớn. Mua một mớ, giặt qua,
rũ bỏ các nếp nhăn, là cẩn thận, và chúng sẽ trông giống như hàng thật. Nếu cậu
giỏi nói thách những món hàng của mình, cậu có thể bán một chiếc áo 10 tệ với
giá 50 hoặc 100 tệ. Cậu sẽ giàu có ngay lập tức!”
“Khách hàng không ngốc
đâu”, tôi trả lời.
“Đúng vậy, nhưng cậu phải
biết tự nói chính mình rằng họ ngốc thật. Bán hàng là một cuộc chiến tâm lý”.
“Nếu khách hàng nào đó
phát hiện ra mình bị lừa thì sao?”
“Giơ súng lên và khẳng định
cậu sẽ không bao giờ bán
“Tôi không chắc mình muốn
điều hành một doanh nghiệp hàng giả. Nếu họ thực sự làm ầm lên và từ chối, hãy
gọi cho tôi”.mà sẽ không thể tồn tại nếu thiếu sự bảo kê của cảnh sát”, tôi
nói, rồi cười cay đắng.
“Nếu cậu có thể rút súng
ra, cậu sẽ có tiền thật”, hắn bảo đảm với tôi. “Tôi có thể giúp cậu được miễn
tiền thuê trong vài năm đầu, và khi cửa hàng thực sự phát đạt, cậu sẽ nắm bắt
cơ hội này và mở một chuỗi cửa hàng. Nhắm đến mười cửa hàng trong vòng năm năm và
năm mươi cửa hàng trong vòng mười năm. Cậu sẽ có chuỗi cửa hàng quần áo hàng đầu
trong thành phố. Nếu muốn tiến thêm một bước, cậu hãy thuê thêm vài người và mở
xưởng may của riêng cậu, tạo ra những thương hiệu gắn tên nước ngoài và xuất khẩu
chúng với giá rẻ; cậu sẽ là ông chủ của một công ty đa quốc gia lớn. Trước khi
cậu nhận ra điều đó, ngay cả người phương Tây cũng sẽ không mặc áo và sẽ không
có quần lót nếu không có cậu”.
Tôi cười lớn, nhưng ngay
khi ngậm miệng, tôi cảm thấy thật thảm hại.
Chúng tôi uống đến tận
khuya, say thật sự. Vừa mới vỗ vào lưng nhau, nhưng ngay sau đó chúng tôi lại
nhìn nhau đầy cảnh giác. Khi bữa nhậu kết thúc thì trời đã gần sáng. “Hãy nghĩ
về điều đó, Lưu nhé”, hắn nói khi chia tay.
Tôi trả lời: “Điều này
không dành cho tôi. Cậu có thể đi tiếp con đường riêng của mình. Tôi sẽ gắn bó
với cây cầu gỗ đơn của tôi“. Cây cầu đơn đó là những buổi thẩm vấn trong tù mà
tôi đang viết lại, trong bí mật.
Một năm sau, người bạn nhậu
vốn là ‘đặc tình’ của cảnh sát đó xông vào căn hộ của tôi với một lũ đàn ông.
“Đây là một sự thực thi pháp luật”, hắn tuyên bố. Hắn cho tôi xem thẻ cảnh sát
của mình và đọc lệnh khám xét. Chúng lục soát kỹ lưỡng ở mọi nơi: trên giường,
trên bàn, trên mái nhà, dưới sàn nhà, và tất cả những ngách bụi bặm mà tôi
không hề bận tâm đến. Chúng mở tất cả các ngăn kéo và lộn tất cả các túi của
tôi từ trong ra ngoài. Mặc người ‘đặc tình’ cũ của tôi, Vũ Tử, phản đối ầm ĩ,
chúng còn lật tung ổ chó và khám xét nó kỹ lưỡng. Mọi thứ có chữ viết trong nhà
đều bị tịch thu: thư từ, ghi chú, tờ rơi tìm chó lạc, và bản thảo cuốn hồi ký gần
hoàn thành của tôi. Tôi đã phải ký vào danh sách các bằng chứng phạm tội mà
chúng đã thu thập. Sau đó, tôi bị đẩy vào một chiếc xe cảnh sát và bị thẩm vấn
tại một đồn cảnh sát gần đó cho đến gần nửa đêm. Vào thời điểm đó, cùng một người
đàn ông từng thúc giục tôi khởi nghiệp trong ngành may mặc đã đến gặp tôi trước
khi tôi về nhà. Hắn bắt tay, vỗ vai và cảnh báo tôi: “Cậu không nên rời khỏi
nhà trong một tháng”.
Tôi đã bị tước đoạt mất
hàng trăm nghìn chữ của đống bản thảo viết tay chỉ trong một đêm. Tôi ngủ thiếp
đi, tự nguyền rủa mình với từng lời nguyền của người Tứ Xuyên mà tôi biết. Và
sau đó, tôi bắt đầu viết lại cuốn hồi ký mình từ đầu. Tôi không xứng đáng với sự
thông cảm của ai – khi đang bận rộn kiếm sống, không ai có thời gian rảnh rỗi
cho những rắc rối lố bịch của kẻ khác – nhưng ở trên thiên đường, hình như các
vị thần linh cảm thấy tiếc cho tôi và bù đắp cho những bất hạnh của tôi bằng
cách gửi cho tôi một thiên thần, Tống Du. Nàng động viên giúp đỡ tôi khi tôi
đang bị mắc kẹt vào quãng thời gian tồi tệ nhất của cuộc đời mình. Vấn đề xuất
tinh sớm của tôi dần dần được khắc phục, nhưng chứng rối loạn chức năng tâm thần
của tôi vẫn tồn tại. Tôi bồn chồn và lo lắng bởi những thay đổi tâm trạng cực độ.
Vào buổi tối, khi thổi sáo trong các quán bar, tôi thường nói nhiều và lần lượt
khuất phục người nghe. Có lần tôi đã đập một cái chai trên đầu người say rượu
trong một cuộc ẩu đả ở quán bar khiến cảnh sát phải lập biên bản.
Năm 1995, cảnh sát mật đã
trở lại. Có lẽ họ đã theo dõi nơi tôi ở; họ dường như luôn biết tôi đã ở đâu và
từng nói chuyện với ai. Họ dường như đã thâm nhập vào những giấc mơ của tôi một
cách bí ẩn: tôi có một giấc mơ lặp đi lặp lại về sự trốn thoát, khi mơ thấy
mình vẫy đôi cánh tay và đột nhiên bay vút lên không trung. Kiệt sức vì bay,
tôi ngủ trong tư thế bào thai, không mong muốn gì hơn là được trở về tử cung của
mẹ, nơi tôi sẽ không bị theo dõi. Khi tôi gặp ác mộng, Tống Du sẽ đánh thức tôi
bằng cách lay tôi nhẹ nhàng và ôm tôi như một người mẹ, cho đến khi một cơn ác
mộng khác trong-đời-thực của một ngày mới bắt đầu.
Điều đã đưa cảnh sát đến
nhà tôi lần này là bản kiến nghị “Sự thật về sự kiện ngày Bốn tháng Sáu” mà Lưu
Hiểu Ba đã gửi cho tôi bằng bản fax. Tôi đã ký vào tài liệu được in mờ nhạt đó
mà không cần suy nghĩ, và fax lại. Hai ngày sau, tôi bị cảnh sát bí mật bắt đi
mà vẫn không hiểu vì sao, và bị giam giữ trong hai mươi ngày. Tống Du đã dành
nhiều ngày bên ngoài các bức tường của nhà tù, cố gắng tìm hiểu những gì đang xảy
ra với tôi. Khi tôi về đến nhà, điều đầu tiên nàng nói với tôi là: “Nếu mọi thứ
cứ tiếp diễn như thế này, liệu chúng ta có còn tương lai với nhau không anh?”
Tôi không thể nói gì thêm
với nàng. Những từ duy nhất xuất hiện trong đầu tôi là một dòng thơ của nhà thơ
xứ Wales, Dylan Thomas: “Dành cho người cảm thấy một thế giới đầy tật bệnh đang
sụp đổ như tuyết tan”.
Lúc đó tôi còn trẻ và
nóng tính. Mặc dù tôi đã gây ồn ào về việc muốn ra nước ngoài, nhưng tôi thực sự
không muốn di cư, thậm chí không muốn phải tị nạn chính trị. Tôi là một con chó
hoang đầy hoang dã. Tôi đã lăn lộn một cách xuất sắc trong những thùng rác
trong các con ngõ, phơi nắng, sau đó lật một vài mẩu rác và tìm kiếm các mẩu
chuyện. Tôi như một kẻ nghiện cờ bạc một cách điên cuồng. Nếu Đảng Cộng sản
không muốn tôi viết một cái gì đó, thì tôi phải viết nó ra. Có lẽ mong muốn này
bắt đầu khi tôi ở trong tù, nằm giữa hai người đàn ông bị kết án tử hình. Họ
đua nhau trút bầu tâm sự với tôi cả ngày lẫn đêm. Một người kể về việc anh ta đã
chém vợ đến chết và sau đó quan hệ tình dục với xác chết của nàng cả tiếng đồng
hồ ra sao. Người kia kể với tôi rằng anh ta đã tỉnh táo như thế nào sau khi trốn
thoát khỏi nhà tù bằng cách ngụp lặn dưới hầm chứa phân rồi tìm cơ hội trốn trại.
Tôi không muốn nghe – các giác quan của tôi đã bị quá tải – nhưng họ sẽ không
im lặng. Họ nói: “Cậu phải nghe. Cậu là thính giả cuối cùng của chúng tôi. Chẳng
nhẽ cậu lại nỡ không lắng nghe chúng tôi ư?” Vì vậy, tôi lắng nghe câu chuyện của
họ nhiều lần. Cách duy nhất tôi có thể khiến hai tên khốn bị kết án đó bước ra
khỏi tâm trí mình là viết ra những câu chuyện của họ. Trong những năm qua, tôi
đã hoàn thành việc ghi chép và viết ra những câu chuyện của hơn ba trăm người sống
dưới đáy xã hội Trung Quốc.
Đến lúc đó, tôi cũng là một
phần của lớp người dưới đáy ấy. Tôi đã rơi xuống vực thẳm của lớp người cùng khổ
ở thành thị, điều này đưa tôi lên cùng một đẳng cấp với những vô gia cư trong
thành phố. Tôi không có định hướng trong cuộc sống, và không có tự do. “Nếu
trái tim của bạn giam cầm bạn, bạn sẽ không bao giờ được tự do”. Đó là điều mà
người thầy dạy sáo trúc của tôi đã từng nói – và không biết giờ ông đang ở đâu?
Tôi bắt đầu uống nhiều rượu. Khi say, tôi sẽ nguyền rủa Trung Quốc, nguyền rủa
cảnh sát, nguyền rủa lãnh đạo Cộng sản Đặng Tiểu Bình và Lý Bằng, nguyền rủa giới
trí thức tinh hoa, nguyền rủa các nhà hoạt động dân chủ lưu vong, và nguyền rủa
cả hàng triệu người đã xuống đường vào năm 1989. Tại sao tôi lại quyết định xuống
đường đọc bài thơ ‘Thảm sát’ của mình vào sáng sớm ngày mồng Bốn tháng Sáu đó?
Nó có đáng không? Tất cả trong số họ đều là những người rất tốt khi bị giết bởi
những gì họ tin tưởng, nhưng tôi đã bị kết án để nhận lấy một cuộc hiện sinh khốn
khổ vô thời hạn.
*
Vào mùa Thu năm 2004, tôi
đã ly hôn lần thứ hai.
Ngay sau đó, cảnh sát mật
đã đến và quản thúc tôi tại gia, sau khi tôi phỏng vấn hai học viên Pháp Luân
Công. Số phận của tôi thật tệ hại. Kể từ khi tôi ra tù một thập kỷ trước đó,
các ‘đặc tình’ được giao nhiệm vụ theo dõi tôi đã thay đổi bảy lần. Lần này
chuyện xảy ra bởi hai người phụ nữ ăn mặc bảnh bao, trông rất lo lắng gõ cửa
nhà tôi. Tôi nghĩ rằng họ là những người ăn xin và tôi cho họ vào. Theo thói
quen, tôi lấy ra cuốn sổ tay của mình và ghi lại cách đối xử khủng khiếp mà họ
phải chịu đựng tại một viện tâm thần.
Một tuần sau, tôi nghe thấy
tiếng đập mạnh vào cánh cửa. May thay, cánh cửa rất chắc chắn và không thể mở
được bằng cách đấm và đá. Trong cơn tuyệt vọng, tôi lấy thẻ ngân hàng và thẻ
căn cước từ ngăn kéo, vắt mình ra khỏi cửa sổ nhà bếp và bắt đầu trèo lên ống
khói bằng cách nắm lấy hai sợi dây chống sét han rỉ. Ngay khi tôi đang chạm vào
mép bê-tông, co mình lại và cố gắng móc chân phải của tôi lên mép mái nhà, thì
bàn tay trái của tôi trượt một chút. Tôi toát mồ hôi lạnh. Tầng bảy! Nếu tôi
ngã, bộ não của tôi sẽ văng khắp nơi như một chiếc bánh nhân thịt.
Tôi đã lợi dụng màn sương
mù dày đặc trong đêm đó để lẻn ra khỏi Thành Đô và sau đó rời khỏi Tứ Xuyên.
Tôi tìm đường xuống Vân Nam để trốn cho đến khi tình hình dịu xuống. Năm sau,
công việc của tôi trong nhóm “những kẻ côn đồ ngày Bốn tháng Sáu” bắt đầu một
cách nghiêm túc.
“Cậu là một trong những kẻ
may mắn”, Ngô Văn Kiện nói. Anh là “kẻ côn đồ” đầu tiên mà tôi phỏng vấn, khi
tôi bắt đầu kể cho anh nghe câu chuyện của mình.
“Đúng vậy. Nếu so sánh với
những người đã chết”, tôi nói.
“Và còn so với cả những
người đang còn sống”, anh đáp.
Ngô Văn Kiện chỉ mới 19
tuổi vào năm 1989. Chống lại mong muốn của cha mẹ, anh tham gia cuộc biểu tình
trên đường phố vào ngày Bốn tháng Sáu ấy, và gặp may khi một viên đạn chỉ sượt
qua da đầu chứ không nhằm trúng tim anh. Anh công khai diễn thuyết, bày tỏ sự
phẫn nộ của mình; bài diễn thuyết tên là: “Chúng tôi yêu cầu trả lại món nợ máu
này”. Nó đã khiến anh lĩnh một cái án bảy năm trong tù, một quãng thời gian
tương đối ngắn.
Ngô trình bày về việc những
‘kẻ côn đồ’ như anh được đối xử như thế nào sau vụ thảm sát. Chẳng hạn, bảy
trong số tám người đầu tiên bị kết án vì tội cố ý gây hỏa hoạn – bảy người này
đã bị buộc tội cố ý đốt cháy xe tăng của quân đội và bị xử tử ngay sau đó. Người
duy nhất được tha mạng là Vương Liên Hỉ, một công nhân vệ sinh bị tàn tật nặng.
Kết quả là, anh bị tống vào tù. Sau mười tám năm, anh được thả ra, ngay trước
Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Sau đó, anh bị đuổi khỏi căn hộ của mình, giống như
nhiều người Bắc Kinh khác, khi thành phố buộc phải di tản hàng nghìn người để
chuẩn bị cho Thế vận Hội. Vương Liên Hỉ trở thành người vô gia cư và cuối cùng
được đưa đến một bệnh viện tâm thần. Những người biết Vương nói anh đã ngủ trên
đường phố và nhặt rác để kiếm thức ăn.
Một người đàn ông khác
tên Lục Trung Cừ, người cũng đã bị buộc tội gây thiệt hại về tài sản bằng việc
đốt cháy các phương tiện giao thông, đã suýt bị quân đội đánh chết trong một vụ
bố ráp điên cuồng. “Chúng tôi thấy những người lính kéo anh ấy vào một chiếc xe
tăng và trực tiếp đưa anh đến một nhà tù”, Ngô kể với tôi. “Sau đó, anh ấy mất
trí. Anh bị phủ kín từ đầu đến chân với những vết thương bầm tím. Anh cũng bị
thương nặng đến mức không thể kiểm soát được ruột hay bàng quang của mình. Anh
đi lang thang trong thế giới của riêng mình và không nói với ai. Cuối cùng anh
biến mất, giống như người biểu tình nổi tiếng vô danh chặn xe tăng”.
Hầu như không có ai tôi
phỏng vấn sẵn sàng nói công khai về tình dục, nhưng sự tổn thương này cũng rất
sâu sắc. Trên khắp Trung Quốc, nhiều người bị bắt sau cuộc biểu tình năm 1989
là những thanh niên, vẫn còn trinh trắng, như Ngô Văn Kiện. Khi được thả ra, họ
là những người đàn ông trung niên, phải đối phó với chứng rối loạn cương dương
và xuất tinh sớm, và quá trình phục hồi của họ thường mất nhiều tháng hoặc nhiều
năm.
Ngô Văn Kiện nói với tôi
về chứng rối loạn cương dương kéo dài ít nhất hai năm của mình. “Tôi đã học vẽ,
nên không lâu sau khi ra tù, tôi đã tìm được việc làm tại một công ty quảng
cáo. Tôi di chuyển rất nhiều vì công việc, vì vậy tôi thường trong các khách sạn
với đầy rẫy phụ nữ gợi cảm. Nhưng tôi sợ rằng cảnh sát đang theo dõi và sẽ bắt
tôi nếu tôi thử thực hiện bất kỳ điều gì.
“Nụ hôn đầu của tôi là một
thảm họa. Tôi xoay xở để hút môi nàng vào miệng mình. Ngay khi vòng tay ôm lấy
nàng, tôi đã xuất tinh, và không thể giấu được. Tôi đã lo lắng và rất cương cứng,
nhưng càng cương cứng, tôi càng khó có thể thỏa mãn nàng. Nó cứ diễn ra như thế
suốt đêm. Nàng rất kiên nhẫn, cứ vuốt ve và an ủi tôi, nhưng tôi đã rơi nước mắt.
Tôi chỉ muốn tự tát vào mặt mình. Nàng đã bỏ đi và không bao giờ quay lại”.
Đó là những gì xảy ra khi
người ta bị bỏ đói tình dục trong một quãng thời gian dài.
Nhiều người sợ nói chuyện
với tôi, như một người bạn của Ngô tên là Côn, người mà vấn đề về tình dục chỉ
là một triệu chứng của tình trạng bất ổn sâu sắc hơn trong cuộc sống của anh.
Ngô đã cố gắng liên lạc với anh để sắp xếp cho tôi một cuộc phỏng vấn, nhưng
anh ấy đã từ chối: “Nếu ông chủ của tôi phát hiện ra, tôi sẽ bị đuổi việc ngay
lập tức”.
Côn là một người yêu nước
thực sự, từng đi lính và đã được giải ngũ với huân chương. Đêm ngày Ba tháng
Sáu, anh ở cầu Mộ Tây Địch, là một trong những người từ trên cao hướng dẫn những
người biểu tình để cùng nhau chống lại xe tăng. Một số người sau đó đã phản bội
anh và tố cáo anh với cảnh sát quân sự, và anh đã bị kết án về tội lật đổ chính
quyền, bị kết án tử hình rồi giảm xuống án chung thân. Vợ anh bỏ anh không lâu
sau đó, mang theo đứa con của họ. Đến khi được thả ra, nhiều năm sau, anh vẫn độc
thân và sống với bố mẹ già tám mươi tuổi.
Côn kể cho tôi nghe một
chút về lịch sử công việc của anh sau khi được trả tự do: “Công việc đầu tiên của
tôi liên quan đến việc đứng ngoài các cửa hàng bách hóa lớn, trông xe đạp của
khách hàng. Tôi chỉ được trả tiền công mà không được kèm theo bất kỳ quyền lợi
gì. Ra đường vào những ngày tuyết rơi, tôi phải liên tục dậm chân để chúng
không bị tê cứng. Sau đó, bạn bè của tôi đã phải nỗ lực để tôi có được công việc
bây giờ, làm bảo vệ cho một nhà tắm công cộng. Tôi dọn dẹp nhà vệ sinh cả ngày
lẫn đêm, nhưng ít nhất nó tạo ra nguồn thu nhập ổn định. Hãy quên các hộp đêm
đi. Bây giờ nhà tắm công cộng mới là điều mới mẻ. Uống, hát karaoke, đánh bài
ăn tiền, tắm, massage toàn thân, massage chân, massage lưng, giúp khách thủ dâm
bằng tay của chúng tôi… Chúng tôi sẽ đáp ứng đầy đủ các mong muốn của khách
hàng”.
“Trong cái hang ổ đồi trụy
đó, tôi chỉ là tay gác cổng kiêm vệ sinh viên. Khi những kẻ siêu giàu ôm những
con mèo béo ú đi vào đó, khoác tay các cô gái trẻ, tôi kính cẩn đứng sang một
bên và đưa khăn ăn cho họ. Trong phong trào sinh viên năm 1989, những người
bình thường như chúng tôi đã ủng hộ các sinh viên vì đất nước chúng ta đang bị
tham nhũng nặng nề. Chúng tôi muốn các quan chức cộng sản hàng đầu tiết lộ ‘thu
nhập đen’ và tài sản riêng của họ. Chúng tôi muốn một khởi đầu mới cho đất nước
mình. Giờ đây, các quan chức chính phủ vẫn liên minh với các doanh nghiệp lớn,
trong khi những người dân bình thường hầu như không thể thỏa mãn các nhu cầu tối
thiểu. Xã hội đang bị khủng hoảng niềm tin. Những người như chúng ta đã phải trả
giá cho việc ủng hộ nền dân chủ Trung Quốc, nay bị gạt sang bên lề và phải chờ
đợi những kẻ siêu giàu với những con mèo béo ú trên tay”.
Có lần, Côn đang dọn dẹp
nhà vệ sinh tại nơi làm việc, thì hai doanh nhân cởi trần bước vào. Một người
là hàng xóm cũ của anh, từng chiến đấu với những chiếc xe tăng bên cạnh anh
trong suốt phong trào sinh viên. Tay hàng xóm cũ kể với Côn sau khi nhận ra
anh: “Tôi đã gặp may và lẩn vào đám đông. Họ không có bằng chứng nào cho thấy
tôi đã tham gia vào các cuộc biểu tình, và tôi đã phủ nhận sự tham gia của mình
một cách vất vả. Cuối cùng, tôi chỉ phải tự phê bình bản thân ở cơ quan”.
Đáp lại lời kêu gọi khởi
sự kinh doanh của Đảng, tay hàng xóm khởi nghiệp trong ngành chế biến thực phẩm,
gặp may trong việc “bán lợn chết như thể lợn sống”, như người ta vẫn nói. Miễn
là không thốt ra lời nào về năm 1989 và không bao giờ đào xới lên những vết
thương cũ, cậu có thể tiếp tục kiếm tiền, hắn khuyên Côn vậy. “Cậu thực sự đã ở
trên đỉnh thế giới rồi!”, tay hàng xóm kêu lên khi vẫn đang vừa cởi trần vừa cố
gắng giảng giải khi Côn đang đợi để tiếp tục dọn dẹp phòng tắm. “Không thể đoán
trước về những gì sẽ xảy ra với bất cứ ai”, hắn nói thêm.
*
Với sự giúp đỡ của Ngô
Văn Kiện, những nỗ lực liên hệ của anh, và từ những người tôi tự liên hệ được
trong tù, tôi đã phỏng vấn những ‘tên côn đồ’ trong ngày Bốn tháng Sáu ấy ở Bắc
Kinh và ở Tứ Xuyên, quê hương tôi, từ năm 2005 đến 2011, thời điểm tôi cuối
cùng đã trốn khỏi Trung Quốc. Bằng những cuộc phỏng vấn bí mật với những người
sống sót vô danh của ngày Bốn tháng Sáu ấy, tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra
với họ suốt phong trào này, sự tra tấn và giam cầm mà họ phải chịu đựng, thân phận
bị gạt sang bên lề xã hội Trung Quốc của họ vào thời điểm này như thế nào.
Không thể ngừng lắng nghe và ghi âm, tôi đã biên soạn cuốn sách tập hợp các phỏng
vấn này, tự gọi mình là một phóng viên hồi tưởng. Nhiều người trong số những
người tôi đã phỏng vấn bị quản thúc tại gia hoặc bị theo dõi, thậm chí từ chính
gia đình của họ, và mọi cuộc hẹn đều khó khăn, đòi hỏi sự chuẩn bị bí mật, cẩn
thận. Vì lý do an toàn, rất ít người ở Trung Quốc ngày nay sẵn sàng nói về vụ
thảm sát Thiên An Môn, chứ chưa nói đến việc sử dụng tên thật của họ trước máy
ghi âm; nhưng, những người đàn ông dũng cảm này đã thực hiện điều đó. Tôi ít bị
tổn thương hơn họ, nhưng tôi là một trong số họ, và tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của những người đồng hành đáng tin cậy. Tuy nhiên, các câu chuyện rời rạc được
kể lại cho tôi trong hàng chục cuộc phỏng vấn sẽ không bao giờ được công bố vì
các nạn nhân từ chối cho phép tôi công bố.
Trong mỗi câu chuyện này,
kể cả câu chuyện của riêng tôi – một người trẻ tuổi theo đuổi lý tưởng bị cuốn
theo làn sóng cách mạng năm 1989, khi Liên Xô sụp đổ, khiến dường như ai cũng
nghĩ nền dân chủ cuối cùng cũng sẽ đến với Trung Quốc. Sau vụ thảm sát, mỗi người
đều phải đối mặt với sự tàn bạo của hệ thống nhà tù Trung Quốc, bao gồm cả việc
tái cải tạo thông qua lao động cưỡng bức. Rối loạn chức năng tình dục, ly dị, bị
gia đình ghẻ lạnh, vô gia cư và thất nghiệp, chịu cay đắng và bị phản bội. Đây
là thế giới của hầu hết những người biểu tình trước đây, đặc biệt là những người
thuộc tầng lớp lao động và đến từ nông thôn. Một người biểu tình trước đây gần
như vô gia cư, trong khi một người khác lên kế hoạch tự thiêu, và người thứ ba
mơ ước trở thành tu sĩ Phật giáo. Một người khác, được ra tù, có một cuộc sống
rất thành công trong ngành quảng cáo nhưng luôn bị ám ảnh bởi vụ thảm sát Thiên
An Môn, đã vẽ rất nhiều bức tranh về sự kiện này. Những người khác vẫn thủy
chung với phong trào, chịu đựng tù đày, quấy rối, quản thúc tại gia và bị theo
dõi liên tục hết lần này đến lần khác vì những tội lỗi nhỏ nhất, họ coi tất cả
sự chịu đựng đó như là sự trân kính các ngôi mộ của những người biểu tình bị giết
hoặc đã bị trừ khử bởi tham gia một đảng chính trị khác.
Trung Quốc ngày nay đã giả
mạo về vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn, và cuốn sách “Những viên đạn
và Liều thuốc phiện” này là câu chuyện về cách nó xảy ra, theo lời của những
người tham gia – những “kẻ côn đồ”, đúng theo tên gọi mà Đảng sử dụng để bôi xấu
họ. Họ không phải là “người biểu tình thuộc giới tinh hoa”: sinh viên tại các
trường đại học hàng đầu, thường là từ các gia đình đặc quyền, đã trở thành tiếng
nói của phong trào và trong nhiều trường hợp đã trốn ra nước ngoài sau đó hoặc
bỏ nước ra đi tương đối dễ dàng. Những ‘kẻ côn đồ’ này là những người thuộc tầng
lớp lao động và nông dân, vốn đã hỗ trợ các sinh viên, rồi phải gánh chịu sự trừng
phạt thảm khốc bởi các cuộc đàn áp, và bị đối xử tàn nhẫn hơn trong tù vì địa vị
xã hội thấp hơn. Nhiều người trong số họ là đàn ông, vì những lý do bắt nguồn
sâu xa trong xã hội Trung Quốc, và tất cả những người được phỏng vấn trong cuốn
sách này, một phần vì lý do tiếp cận, đều là đàn ông. Cách xa ánh đèn sân khấu
của quyền con người, tôi tìm thấy những ‘kẻ côn đồ’ này tại các quán lẩu ở vùng
ngoại ô xa xôi, đang lảng vảng trên phố, trốn tránh việc quản thúc tại gia và sự
theo dõi của cảnh sát, sống với cha mẹ và không có tiền đồ.
Phương Tây chỉ biết một
người biểu tình: “Người đàn ông vô danh chặn xe tăng”, người đàn ông trong bức ảnh
mang tính biểu tượng đứng trên đường, chặn những chiếc xe tăng như những con bọ
hung khổng lồ đang cố gắng vượt lên. Chúng tiếp tục cố gắng vượt qua anh, nhưng
anh vẫn tiếp tục cản đường chúng. “Lũ chúng mi là người thép, còn ta chỉ là người
trần mắt thị”, dường như anh đang nói vậy. ”Hãy đến bắt ta nếu chúng mi dám!”.
Khoảnh khắc này được lưu giữ cho hậu thế vì một phóng viên nước ngoài tình cờ
quay phim được nó, nhưng có vô số “người đàn ông chặn xe tăng” khác, mà hành động
của họ không được ghi lại bằng ống kính.
Cuốn sách này còn là bản
cáo trạng dành cho vô số người khác, những người sợ hãi lịch sử và sau đó sống
mòn với tiền bạc và quyền lực. Nhưng những người được phỏng vấn đầy chán chường
của tôi đã không suy nghĩ nhiều bản cáo trạng này. Tôi cũng vậy, tôi đã nghi ngờ
về việc các bản ghi chép của mình sẽ được sử dụng trong tương lai.
Vào năm 2011, sau nhiều
năm lắng nghe câu chuyện mà tôi tôi muốn thoát khỏi, sau nửa cuộc đời sống
trong ác mộng, tôi muốn nói lời chia tay với vụ thảm sát năm 1989. Liệu nó có
đáng không? Tôi nhét tất cả những lời chứng mà tôi đã thu thập được vào quần áo
của tôi. Tôi tắt điện thoại di động và rút pin ra, hy vọng trốn tránh sự theo
dõi của cảnh sát. Điều đó giúp tôi không để người thân phải lo lắng.
Ngày đầu tiên tôi chính
thức mất tích, tôi ở thành phố Đại Lý xa xôi, uống rượu với một nhóm bạn suốt đời
phải mang tiếng xấu đó. Ngồi đối diện với tôi là hai nữ nhà văn xinh đẹp ở tuổi
đôi mươi, những phụ nữ có thể uống nhiều hơn và mỉa mai những người đàn ông. Chỉ
vào mũi tôi, họ hét lên: “Cái đầu buồi ngu ngốc kia!”, nên tôi phải chuyển sang
ngồi bàn khác. Những người bạn kia vỗ tay khen ngợi tôi và nghĩ rằng tôi sẽ
lang thang ở đó một thời gian. Tôi không bao giờ biết có bao nhiêu người đang
theo dõi tôi ở xung quanh. Nhưng thấy tôi uống rượu rất nhiều ở đó, đêm này qua
đêm khác, không làm gì nghiêm trọng, nên họ đã bớt theo dõi tôi gắt gao. Sau
đó, cứ như vậy, tôi đột nhiên bỏ đi và không bao giờ quay lại.
Đến một thành phố khác
trên một chuyến xe buýt đường dài, tôi chọn một quán trọ nhỏ một cách ngẫu
nhiên và trốn ở đó trong hai đêm để đảm bảo không ai biết tôi đang ở đâu. “Tiếp
tục chạy trốn, tiếp tục chạy trốn!”, tôi hét lên với chính mình ngay cả trong
những giấc mơ. Trước khi bình minh ló rạng, tôi đi ra khỏi cửa với chiếc túi
đeo chéo qua vai. Khi tôi đến một thị trấn nhỏ ở sát biên giới thì trời đã tối.
Giữa sấm sét, chớp giật và mưa như trút nước, tôi vào một khách sạn và liên lạc
với một người dân vùng biên giới có nhiệm vụ giúp đỡ tôi.
Phải mất một thời gian
dài để ông xuất hiện. Chúng tôi thì thầm với nhau hơn mười phút. Ông nói rằng
vượt qua biên giới khá dễ dàng. Có thể lấy một chiếc thuyền và chèo qua phía
bên kia. Ông nói: “Cảnh sát không chú ý đâu, và chúng tôi thường xuyên đóng ‘phế’
cho chúng”. Tôi nói mình không muốn đi thuyền. Tôi muốn băng qua cầu.
“Sẽ gặp một chút khó khăn
đấy”, ông nói, “nhưng chúng ta có thể thử”.
Những linh hồn của năm
1989, những người anh em phải chịu đựng sự đàn áp vào năm 1989, những người mẹ
và những người cha của năm 1989, những người bạn trên thiên đường, những người
bạn bị chôn vùi dưới lòng đất, những người mà linh hồn của họ đang lẩn khuất
trong mưa hoặc đang bị gió thổi đi từ bóng tối của vùng biên giới, tôi cúi đầu
chào các bạn. Tối hôm sau, trước khi bước ra khỏi địa phận Trung Quốc để đi
sang tỉnh Lào Cai của Việt Nam, tôi nhìn lại quê hương mình, và, như đang trong
một giấc mơ, mấy dòng thơ cũ chợt ùa đến với tôi:
‘Thế giới là một cây cầu
rất hẹp
Đừng sợ
Bạn có thể vượt qua nó’.
____
Về tác giả: Lưu Diệc Vũ là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và nhà báo Trung Quốc.
Ông sinh năm 1958 tại Tứ Xuyên. Ông là người phê phán chế độ Cộng sản Trung Quốc,
đã bị cầm tù. Những cuốn sách của ông, vài cuốn trong số đó là các bộ sưu tập
các cuộc phỏng vấn với những người bình thường từ dưới đáy xã hội Trung Quốc,
đã được xuất bản ở Đài Loan và Hồng Kông nhưng bị cấm ở Trung Quốc đại lục; một
số đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ba Lan và tiếng Tiệp.
Ông hiện đang tị nạn chính trị ở Đức. (Wikipedia)
Nguồn: “Bullets and Opium: Stories of China after the Great Massacre” [Những
viên đạn và Mồi thuốc phiện: Các câu chuyện đời thực về Trung Quốc sau cuộc Thảm
sát Thiên An Môn] (Simon and Schuster, 2019)]
Nhà văn Lưu Diệc Vũ
Hình bìa tác phẩm Bullets
and Opium
Hình ảnh biến cố Thiên An
Môn :
No comments:
Post a Comment