Chính sách chiếm đoạt
đất đai của Trung Quốc ở Bhutan
Robert Barnett
| The Diplomat
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên
dịch | Nghiên Cứu Quốc Tế
Trung
Quốc đã xây dựng 22 ngôi làng và khu định cư bên trong biên giới của Bhutan. Và
không có dấu hiệu nào cho thấy Bhutan có thể làm gì về điều này – hoặc Bắc Kinh
sẽ phải đối mặt với bất kỳ cái giá nào.
Trong
quan hệ với các nước láng giềng, Trung Quốc “luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp
công bằng và hợp lý thông qua các cuộc tham vấn hòa bình và hữu nghị,” một phát
ngôn viên của Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ đã nói với tờ New York
Times như vậy vào tháng 8. Thế thì tại sao Trung Quốc lại chiếm đoạt một
phần lãnh thổ của nước láng giềng của họ?
Láng
giềng đó là Bhutan, quốc gia mà Trung Quốc đã nói suốt hàng chục năm qua rằng họ
muốn có quan hệ ngoại giao chính thức, nhằm cân bằng hoặc giảm bớt quan hệ chặt
chẽ của Bhutan với láng giềng phía nam của mình là Ấn Độ. Về phần mình, Bhutan
cũng có cái mà họ gọi là “quan hệ hữu nghị và hợp tác với Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa” và đã liên tục ủng hộ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và nhiều nơi
khác.
Như
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã nói, theo cách diễn đạt mang tính thơ ca
hơn, “Trung Quốc và Bhutan được nối liền bởi núi và sông, và có tình hữu nghị
truyền thống sâu sắc.” Và Trung Quốc đã ký một hiệp ước với Bhutan vào năm 1998
trong đó cả hai bên tuyên bố “tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau” và nhất trí “không dùng đến hành động đơn phương để thay đổi
nguyên trạng biên giới.”
Tuy
nhiên, những gì xảy ra sau đó là hoàn toàn ngược lại. Tám năm trước, Trung Quốc
đã bắt đầu xây dựng các ngôi làng ở vùng lãnh thổ vốn thuộc về Bhutan trong nhiều
thập kỷ, nếu không muốn nói là nhiều thế kỷ. Giờ đây, như được ghi chép trong một
báo cáo vừa được công bố, Trung Quốc đã xây dựng 22 ngôi làng và khu định cư
như vậy bên trong biên giới thông thường của Bhutan. Và không có dấu hiệu nào
cho thấy Bhutan có thể làm gì về điều này – hoặc Bắc Kinh sẽ phải đối mặt với bất
kỳ cái giá nào khi làm như vậy.
Theo
như hình ảnh vệ tinh, các ngôi làng và khu định cư của Trung Quốc có tổng cộng
khoảng 2.200 ngôi nhà cho khoảng 7.000 người ở. Để xây dựng những ngôi làng
này, Trung Quốc đã sáp nhập 2% lãnh thổ của Bhutan.
Các
ngôi làng đang được xây dựng ở hai khu vực của Bhutan. Tám ngôi làng trong số
này nằm ở một khu vực phía tây của Bhutan mà nhà sử học Tsering Shakya cho biết
đã được nhượng lại cho Bhutan vào đầu thế kỷ 20 bởi người cai trị Tây Tạng lúc
bấy giờ, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Trung Quốc đã xây dựng tám ngôi làng đó vì
lý do quân sự: họ muốn chiếm khu vực phía tây của Bhutan vì nó bao gồm một khu
vực rộng 89 km vuông được gọi là Doklam, nắm giữ được khu vực này sẽ mang lại
cho Trung Quốc lợi thế chiến lược lớn trong cuộc đối đầu đang diễn ra với Ấn Độ.
https://thediplomat.com/wp-content/uploads/2024/10/thediplomat_2024-10-14-171114.png
Bản
đồ Làng Bji ở Huyện Haa, phía tây Bhutan. Bản đồ cơ sở là bản đồ Bhutan tỷ lệ
1:250.000 (phiên bản 1) do Sở Khảo sát và Hồ sơ Đất đai, Bộ Nông nghiệp Bhutan
xuất bản năm 2006. Đường biên giới quốc tế giữa Bhutan và Trung Quốc được thể
hiện như trên bản đồ cơ sở. Tên của các thung lũng và địa điểm của các làng
biên giới Trung Quốc đã được thêm vào.
14
ngôi làng và khu định cư còn lại của Trung Quốc nằm ở khu vực đông bắc Bhutan
được gọi là Beyul Khenpajong và Menchuma. Những khu vực này luôn được hiểu là
lãnh thổ của Bhutan. Trung Quốc chỉ đưa ra yêu sách đối với những khu vực này từ
thập niên 1980, và chí ít là đến đầu thập niên 1990, chúng vẫn được thể hiện
trên các bản đồ chính thức của Trung Quốc là một phần của Bhutan.
https://thediplomat.com/wp-content/uploads/2024/10/thediplomat_2024-10-14-171118.png
Bản
đồ Làng Kurtoe ở Huyện Lhuentse, phía đông bắc Bhutan. Bản đồ cơ sở là bản đồ
Bhutan tỷ lệ 1:250.000 (phiên bản 1) do Sở Khảo sát và Hồ sơ Đất đai, Bộ Nông
nghiệp Bhutan xuất bản năm 2006. Đường biên giới quốc tế giữa Bhutan và Trung
Quốc được thể hiện như trên bản đồ cơ sở. Tên của các thung lũng và địa điểm của
các làng biên giới Trung Quốc đã được thêm vào.
Thật
ra, những khu vực đông bắc Bhutan này không có giá trị quân sự hay chiến lược
quan trọng nào đối với Trung Quốc. Lý do Trung Quốc sáp nhập chúng ít nhiều là
để gây áp lực ngoại giao lên Bhutan. Năm 1990, trong cái được gọi là “thỏa thuận
trọn gói,” Bắc Kinh đã đề nghị từ bỏ các yêu sách của mình ở đông bắc Bhutan nếu
Thimphu chịu nhượng lại một số vùng lãnh thổ mà họ tuyên bố chủ quyền ở phía
tây, bao gồm cả Doklam, cho Trung Quốc. Nói cách khác, các ngôi làng Trung Quốc
ở đông bắc này được xây dựng bên trong biên giới của Bhutan như một lời đe dọa:
nếu Bhutan không đồng ý với thỏa thuận trọn gói và nhượng lại các khu vực phía
tây, thì họ cũng sẽ mất luôn các khu vực phía đông bắc.
Lời
đe dọa đó gần như đã trở thành hiện thực. Không có bất kỳ bình luận công khai
nào, và thậm chí không được chú ý trong nước, chứ đừng nói đến nước ngoài,
Bhutan đã âm thầm thay đổi bản đồ của mình để Menchuma, một trong những khu vực
đông bắc do Trung Quốc chiếm đóng từ những năm 2000, không còn được thể hiện là
một phần của Bhutan nữa, dù rõ ràng là nó đã từng là một phần của Bhutan cách
đây khoảng 30 năm – ngay cả trên bản đồ của Trung Quốc.
Và
vào tháng 3 năm ngoái, hai năm sau khi có báo cáo về các ngôi làng Trung Quốc
bên trong Bhutan, Thủ tướng Bhutan cuối cùng đã nói rằng những báo cáo đó là
sai. Tuy nhiên, tuyên bố này không có nghĩa là những báo cáo đó là sai vào thời
điểm chúng được công bố. Thay vào đó, nó cho thấy rằng hiện tại Bhutan không
còn mong đợi có thể thu hồi được các khu vực mà Trung Quốc đã xây dựng các ngôi
làng xuyên biên giới.
Bản
đồ thể hiện các khu vực chính của Bhutan hiện bị Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc đang xây dựng các ngôi làng ở khu vực phía tây của Bhutan (ở Bji,
huyện Haa) và ở khu vực đông bắc (ở Beyul và Menchuma, huyện Lhuentse). Trước
đó, vào những năm 1980, Bhutan đã nhượng Kula Khari (huyện Gasa) cho Trung Quốc;
và đến năm 2020, Trung Quốc đã công khai yêu sách chủ quyền đối với Sakteng ở
khu vực phía đông. Nguồn: Foreign Policy/Robert Barnett 2021.
Từ
đòn bẩy đến trừng phạt
Tám
ngôi làng của Trung Quốc nằm ở phía tây Bhutan là một phần của cái mà Trung Quốc
gọi là chiến thuật “củng cố” hoặc “sửa chữa”: chúng là một cách để giành được
lãnh thổ bằng cách tạo ra “sự thật trên thực địa” mà bên còn lại khó có thể
thay đổi mà không gây ra chiến tranh. Theo nghĩa này, chúng giống như hành động
của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nhưng
14 ngôi làng và khu định cư ở phía đông bắc Bhutan lại đại diện cho một lý do
hoàn toàn khác: chúng không phải là việc chiếm giữ một tài sản chiến lược, mà
là dường như chỉ là sự chiếm đóng tạm thời, một tín hiệu gửi đến Bhutan rằng họ
nên khuất phục trước áp lực. Điều này đã được chứng minh bởi thực tế là: vào
năm 2018, khi Trung Quốc hoàn thành việc xây dựng ngôi làng xuyên biên giới đầu
tiên của mình, nằm ở phía đông bắc Bhutan, chỉ có 16 cư dân đến sống.
Đến
đầu năm 2023, khi Bhutan tuyên bố rằng họ sắp đạt được thỏa thuận với Trung Quốc
và không có ngôi làng nào của Trung Quốc trên đất của họ, áp lực dường như đã
mang lại lợi ích cho Trung Quốc. Tuy nhiên, cơn sốt xây dựng của Trung Quốc ở
đông bắc Bhutan vẫn tiếp tục. Tính đến cuối năm 2022, đã có 14 ngôi làng và khu
định cư được xây dựng trong sáu năm. Nhưng trong 18 tháng kể từ đầu năm 2023, bảy
ngôi làng và khu định cư khác đã được xây dựng, và ba ngôi làng hiện có đã được
mở rộng đáng kể và đang được nâng cấp từ làng thành thị trấn. Làn sóng xây dựng
này đã bổ sung thêm 790 đơn vị nhà ở của người Trung Quốc ở phía đông bắc
Bhutan, tăng gấp ba lần số lượng nhà ở khu vực mà cho đến gần đây Trung Quốc dường
như vẫn không cho là có tầm quan trọng chiến lược.
Những
ngôi làng và khu định cư đông bắc mới này không thực sự cần thiết để tăng áp lực
của Trung Quốc lên Bhutan – Thimphu gần như đã nhượng bộ hầu hết các yêu cầu của
Trung Quốc, vì họ không có lựa chọn nào khác. Thay vào đó, chúng có thể là một
sự trừng phạt đối với Bhutan vì họ không thể nhường Doklam cho Trung Quốc. Về mặt
pháp lý, Bhutan không thể làm như vậy trừ khi Ấn Độ đồng ý, vì một hiệp ước năm
2007 giữa Bhutan và Ấn Độ buộc cả hai bên không được “cho phép sử dụng lãnh thổ
của mình cho các hoạt động gây hại đến an ninh quốc gia và lợi ích của bên
kia.” Vì vậy, có thể nói việc Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng một số vùng của
Bhutan và mở rộng các ngôi làng xuyên biên giới của mình là hành động trừng phạt
Bhutan vì đã không chấp nhận một yếu tố của thỏa thuận trọn gói mà họ không có
thẩm quyền chấp nhận.
Nếu
Bhutan nhượng lại các khu vực phía tây không phải Doklam mà chính phủ Trung Quốc
yêu cầu, nhiều khả năng là điều sẽ xảy ra, họ sẽ nhận được một số phần thưởng từ
Trung Quốc, vì Bắc Kinh rất có thể sẽ từ bỏ các yêu sách của mình đối với những
khu vực của Bhutan mà họ đã tuyên bố chủ quyền nhưng chưa chiếm đóng. Các khu vực
này là bao gồm các thung lũng sông Langmarpo, Charithang, và Yak ở phía tây và
khu vực Chagdzom ở phía đông bắc, với tổng diện tích khoảng 430 km vuông. Một số
nhà quan sát nhận định rằng các yêu sách của Trung Quốc đối với những khu vực
đó là để “chuyển nhượng” – nghĩa là những yêu sách mang tính tượng trưng chỉ được
đưa ra để rồi từ bỏ nhằm tạo ấn tượng thiện chí.
Cũng
có khả năng Trung Quốc sẽ trả lại thung lũng Pagsamlung, một khu vực có ý nghĩa
tôn giáo và lịch sử đối với Bhutan, mà Trung Quốc đã sáp nhập bằng cách xây dựng
đường sá và tiền đồn cũng như đồn trú quân đội, nhưng nơi này không có làng mạc
nào được xây dựng. Tuy nhiên, việc trả lại thung lũng Pagsamlung cho Bhutan
cũng không phải là một sự nhượng bộ thực sự, vì Trung Quốc đã không đưa
Pagsamlung vào bản đồ cấp quốc gia của mình (dù một số bản đồ cấp địa phương của
Trung Quốc có đưa khu vực này vào lãnh thổ quốc gia), và đã không làm như vậy
trong ít nhất 25 năm. Vì vậy, trong trường hợp của thung lũng Pagsamlung, Trung
Quốc đã chiếm đóng một phần lãnh thổ của một nước láng giềng mà họ thậm chí còn
không tuyên bố chủ quyền.
Xung
đột không có kẻ thù
Do
đó, các vụ chiếm đất của Trung Quốc ở Bhutan khác với các hành động của Bắc
Kinh ở Biển Đông. Thứ nhất, khác với quần đảo Trường Sa và các địa điểm hàng hải
khác trên tuyến đường thủy quan trọng, hầu hết các ngôi làng của Trung Quốc ở
Bhutan không nằm trong các khu vực có giá trị chiến lược lớn, ngoại trừ Doklam.
Giá trị của chúng chủ yếu là một hình thức gây áp lực lên chính phủ Bhutan để
đòi họ nhượng lại cao nguyên Doklam.
Thứ
hai, hành động của Trung Quốc ở Biển Đông – tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên cơ
sở không rõ ràng, rồi đơn phương xây dựng trên lãnh thổ đó – là hành động thù địch
nhắm vào các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, Bhutan được cho là bạn của Trung Quốc,
và Bhutan không thể dùng đến bất kỳ hình thức phản ứng đối kháng nào, vì quy
mô, tài nguyên, và địa lý của họ. Trung Quốc đã có thể sử dụng nhiều lựa chọn
khác để gây áp lực ngoại giao lên Bhutan mà không cần chiếm giữ lãnh thổ của nước
này và công khai vi phạm một thỏa thuận quốc tế.
Trong
mọi trường hợp, chí ít là từ đầu những năm 1990, Bhutan đã thể hiện sự quan tâm
của mình trong việc mở rộng quan hệ chính thức với Bắc Kinh và giải quyết các
tranh chấp biên giới, ngoại trừ vấn đề Doklam, vốn phụ thuộc vào việc có được sự
đồng ý từ Ấn Độ. Sự sẵn lòng của Bhutan chưa bao giờ là vấn đề, nhưng ngay cả
việc Trung Quốc sử dụng biện pháp sáp nhập lãnh thổ như một hình thức gây áp lực
cực đoan đối với Bhutan có lẽ cũng không thể khiến Ấn Độ đồng ý nhượng Doklam
cho Trung Quốc.
Một
người theo chủ nghĩa hiện thực có thể xem hành động của Trung Quốc là những gì
mà nhà lý thuyết chính trị Thomas Schelling gọi là “ngoại giao cưỡng chế,” hay
cụ thể hơn là “ép buộc” – một hình thức khẳng định quyền thống trị bằng vũ lực.
Nhưng lý thuyết của Schelling cho rằng luôn có một kẻ thù, khiến cho thế lực cưỡng
bức có tương đối ít lựa chọn. Ngược lại, trong trường hợp này, Bhutan không
tuyên bố chủ quyền với bất cứ lãnh thổ nào do Trung Quốc nắm giữ trước các cuộc
sáp nhập gần đây, và không thể cạnh tranh với Trung Quốc ngay cả khi Bhutan có
yêu sách lãnh thổ.
Ngoài
ra, ngoại giao cưỡng chế cũng bao gồm một mối đe dọa sẽ không trở thành hiện thực
trừ phi có sự không tuân thủ (hãy nghĩ đến Kennedy và Khủng hoảng Tên lửa
Cuba). Nhưng trong trường hợp của Bhutan, mối đe dọa đã được hiện thực hóa trước,
khiến nó gần hơn với “hành động cưỡng bức” của Schelling (mà ông cũng gọi là “sức
mạnh thô bạo”), với lời hứa mập mờ về việc rút quân nếu Bhutan chịu nhượng bộ
yêu cầu – một lời hứa mà các nhà chiến lược Trung Quốc hẳn đã biết rằng họ sẽ
không bao giờ thực hiện.
Tất
nhiên, hành động của Bắc Kinh cuối cùng là nhắm vào Ấn Độ, quốc gia mà Trung Quốc
đang mắc kẹt trong một cuộc xung đột biên giới kéo dài. Nhưng nước bị thiệt hại
duy nhất ở đây là Bhutan, không phải Ấn Độ. Về phần mình, Ấn Độ chỉ quan tâm đến
Doklam – hay chính xác hơn là dãy núi phía nam Doklam, nơi cung cấp tầm nhìn
qua khu vực nút thắt cổ chai của Ấn Độ tại Siliguri.
Tháng
6/2017, Ấn Độ đã điều 270 quân đến Doklam để ngăn quân lính Trung Quốc chiếm
dãy núi đó, dẫn đến cuộc đối đầu kéo dài 73 ngày giữa các đơn vị quân đội Ấn Độ
và Trung Quốc. Nhưng Ấn Độ đã không bình luận công khai hoặc phản ứng trước các
cuộc xâm nhập hoặc chiếm đoạt của Trung Quốc tại các địa điểm khác dọc biên giới
Bhutan-Trung Quốc, và thậm chí không phản ứng với việc Trung Quốc chiếm giữ phần
lớn cao nguyên Doklam ngay phía bắc dãy núi, nơi Trung Quốc đã xây dựng nhiều
con đường, doanh trại, và cơ sở quân sự trên vùng lãnh thổ rõ ràng là đang
tranh chấp.
Vậy
tại sao Trung Quốc lại mạo hiểm mục tiêu đã nêu là thiết lập quan hệ chính thức
với một nước láng giềng thân thiện, cũng như cam kết của họ về một “sự trỗi dậy
hòa bình,” để trừng phạt Ấn Độ, bên thứ ba vốn chỉ quan tâm đến một khu vực nhỏ
của biên giới đó? Và tại sao Trung Quốc lại tiếp tục xây dựng các ngôi làng ở
vùng đông bắc Bhutan – với cái giá khổng lồ, bởi vì chúng xa xôi, lạnh lẽo, và
còn khiến chính phủ Trung Quốc phải trả một khoản tiền lớn để người dân chịu đến
sống ở những ngôi làng đó – rất lâu sau khi chúng không còn công dụng như một
đòn bẩy thương lượng nữa?
Các
yếu tố trong nước có thể đóng vai trò trong tình huống này – các quan chức địa
phương Tây Tạng có thể nhận được nguồn tài trợ đáng kể từ Bắc Kinh cho chính
quyền của họ bằng cách tuyên bố rằng họ phải đối mặt với các mối đe dọa an ninh
từ miền bắc Bhutan. Tuy nhiên, vì quân đội Ấn Độ hầu như không có sự hiện diện
nào ở Bhutan ngoài Doklam, nên mối đe dọa duy nhất mà phương tiện truyền thông
Trung Quốc nhắc đến là khả năng những người Tây Tạng lưu vong ủng hộ Đức Đạt
Lai Lạt Ma bằng cách nào đó có thể vượt biên vào Tây Tạng qua Bhutan để kích động
phong trào độc lập. Nhưng gần như không có báo cáo nào về việc vượt biên trái
phép trong mười năm qua trên bất kỳ phần nào của đường biên giới dài 4.000 km của
Tây Tạng (91% biên giới là với Ấn Độ hoặc Nepal, không phải Bhutan), và thậm
chí trước đó cũng không có báo cáo nào về bất kỳ người nào cố gắng vượt biên
qua Bhutan.
Sử
dụng sáp nhập lãnh thổ như một công cụ ngoại giao phù hợp với bước chuyển đổi gần
đây của Trung Quốc từ cách tiếp cận quyền lực mềm sang các động thái quyền lực
cứng trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt là liên quan đến Đài Loan, Philippines,
và Ấn Độ. Một số người đã đưa ra những lời giải thích hiện thực chủ nghĩa cho
những diễn biến này, lập luận rằng Trung Quốc xem những quốc gia đó là mối đe dọa
nào đó đối với an ninh của mình. Những người khác cho rằng việc Trung Quốc, cố
ý hay không cố ý, kết hợp cam kết về cách tiếp cận quyền lực mềm với thực tế của
chính trị quyền lực cứng là nhằm tạo ra sự nhầm lẫn cho những người quan sát và
làm giảm khả năng dự đoán. Tuy nhiên, những lập luận như vậy không có nhiều giá
trị trong trường hợp của Bhutan, vì nước này không gây ra mối đe dọa cho Trung
Quốc. Thay vào đó, trường hợp Bhutan chính là ví dụ lớn nhất cho đến nay về khoảng
cách giữa lời nói và thực tế của Trung Quốc trong chính sách đối với các nước
láng giềng, đặc biệt là các nước nhỏ hơn.
Không
phải trả giá?
Nhưng
có một yếu tố khác có thể quan trọng hơn các giả định về tính hợp lý hoặc phản ứng
lại mối đe dọa: ở đây không có cái giá nào cả. Việc các quốc gia thực thi sức mạnh
cưỡng chế của mình thường bị hạn chế bởi cái giá của việc hành động quá mức.
Nhưng trong trường hợp của Bhutan, không có cái giá nào cả, thậm chí là cái giá
nhẹ nhất.
Các
phương tiện truyền thông chính thống, ngoại trừ những phương tiện truyền thông ở
Ấn Độ, phần lớn đã bỏ qua vấn đề này, ngoại trừ một số bài báo của tờ New York Times năm 2020, Reuters năm 2021,
và Wall Street Journal năm 2024, ba
năm sau những báo cáo lớn đầu tiên về hoạt động xây dựng làng xuyên biên giới
(bên cạnh một bài xã luận trên tờ Washington Post mà tôi đã viết
năm 2020). Những lời chỉ trích Trung Quốc là chuyện thường ngày trên các phương
tiện truyền thông phương Tây – ví dụ, đài BBC và tờ Guardian gần
đây đã đưa tin về những cáo buộc cực kỳ đáng ngờ về hành vi lạm dụng của Trung
Quốc ở Tây Tạng dựa trên những bằng chứng ít ỏi như ảnh chụp sinh viên mặc quân
phục hoặc sự thay đổi không đáng kể trong quá trình phát sáng vào ban đêm.
Nhưng không có cơ quan nào đưa tin về việc Trung Quốc sáp nhập lãnh thổ bên
trong một quốc gia khác – vốn là hành động thách thức nguyên tắc sáng lập của
Liên Hiệp Quốc.
Về
phía các chính phủ, Bhutan và Ấn Độ phần lớn giữ im lặng về vấn đề này, chắc chắn
đó là lựa chọn khôn ngoan nhất đối với họ trong tình huống này. Nhưng vẫn chưa
rõ tại sao các chính phủ hoặc chính trị gia khác lại im lặng về việc Trung Quốc
sáp nhập một số vùng của Bhutan. Tất cả các báo cáo về việc xây dựng làng mạc ở
vùng lãnh thổ tranh chấp từ lâu đã được xác nhận bằng hình ảnh vệ tinh, và quân
đội Mỹ đã ban hành hai báo cáo đánh giá chương trình xây dựng làng mạc của
Trung Quốc ở Bhutan có khả năng là một trường hợp chiếm đóng lãnh thổ (một báo
cáo xuất bản vào tháng 10/2023 và một báo cáo khác chi tiết hơn nhiều vào tháng
3 năm nay). Những lời lẽ chống Trung Quốc cuồng nhiệt chưa bao giờ có ích,
nhưng sự im lặng gần như hoàn toàn có nguy cơ báo hiệu sự đồng tình của cộng đồng
đối với việc sử dụng sáp nhập lãnh thổ như một chiến thuật có thể áp dụng với
các nước láng giềng nhỏ.
Lý
do khiến Trung Quốc chọn chiến thuật cứng rắn này đối với Bhutan có thể là vì họ
đã tính toán đúng đắn rằng Bhutan sẽ phải chịu mọi thiệt hại. Xét đến những cân
nhắc dài hạn, Bhutan không có lựa chọn hiệu quả nào khác ngoài việc tiếp tục
như thể người hàng xóm phương bắc hùng mạnh của mình là bạn tốt, chấp nhận thỏa
thuận của Trung Quốc trong chừng mực được Ấn Độ cho phép và tìm cách mở quan hệ
chính thức với Bắc Kinh. Như Thủ tướng khi đó là Lotay Tshering đã nói vào năm
ngoái, “Tại sao Bhutan lại không có bất kỳ quan hệ song phương nào với Trung Quốc?
Câu hỏi là khi nào và theo cách nào.”
Trung
Quốc có thể không kiểm soát được dãy núi phía nam Doklam, nhưng các hành động
xuyên biên giới của nước này ở những khu vực khác của Bhutan đã chứng minh tính
hiệu quả của việc chiếm đoạt lãnh thổ như một phương tiện miễn phí để một cường
quốc có thể giành được sự nhượng bộ từ một nước láng giềng nhỏ hơn.
------------------------
Robert
Barnett
là giáo sư và cộng tác viên nghiên cứu cấp cao tại Đại học SOAS London, đồng thời
là giảng viên và cộng tác viên nghiên cứu tại Đại học Hoàng gia London (King’s
College London). Ông nghiên cứu về Trung Quốc và lịch sử Tây Tạng hiện đại. Cuốn
sách gần nhất của ông là “Conflicted Memories” (Brill, 2019) – đồng biên tập với
Benno Weiner và Françoise Robin.
Nguồn: Robert Barnett, “The
Politics of China’s Land Appropriation in Bhutan,” The Diplomat, 15/10/2024
No comments:
Post a Comment