Renaud Foucart
- The
Conversation
Hải
Âu dịch | www.phantichkinhte123.com
18.10.24
Lời toà soạn:
Giải
Nobel Kinh tế 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu và
Simon Johnson của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và James Robinson của Đại
học Chicago vì công trình nghiên cứu lý giải sự chênh lệch lớn về mức độ thịnh
vượng giữa các quốc gia.
Trong
diễn văn công bố giải, Chủ tịch ủy ban giải thưởng kinh tế – Jakob Svensson cho
biết: “Một trong những thách thức lớn nhất của thời đại chúng ta là thu hẹp mức
chênh lệch lớn về thu nhập giữa các quốc gia”. “Nghiên cứu mang tính đột phá” của
các nhà kinh tế đã mang lại cho chúng ta “hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên nhân
gốc rễ khiến các quốc gia thất bại hoặc thành công trong nỗ lực đó”.
Giải Nobel Kinh tế được thiết lập sau các giải
Nobel đầu tiên vài thập niên, vào những năm 1960, có tên gọi chính thức là Giải
thưởng Sveriges Riksbank về Khoa học Kinh tế. Các nhà nghiên cứu sẽ cùng chia sẻ
giải thưởng và khoản tiền trị giá 11 triệu SEK Thụy Điển (khoảng 26,3 tỷ VND).
Chúng
tôi đã trao đổi với Renaud Foucart, giảng viên cao cấp khoa Kinh tế tại Đại học
Lancaster (Anh) để hiểu rõ hơn về công trình nghiên cứu đã đoạt giải Nobel Kinh
tế năm nay, và lý do tại sao công trình này quan trọng.
*
Tại
sao Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson giành chiến thắng?
Ba nhà
nghiên cứu giành giải chủ yếu nhờ cung cấp được bằng chứng nhân quả về ảnh hưởng
của chất lượng thể chế lên mức độ thịnh vượng kinh tế của một quốc gia.
Thoạt
trông, điều này có vẻ giống như phát minh lại bánh xe. Hầu hết mọi người có lẽ
đều đồng ý rằng một quốc gia thực thi quyền sở hữu tài sản, hạn chế tham nhũng
và bảo vệ pháp quyền cũng như sự cân bằng quyền lực sẽ thành công hơn trong việc
khuyến khích công dân tạo ra của cải, và phân phối lại số của cải đó tốt hơn.
Nhưng người
theo dõi tin tức ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Mỹ hay thậm chí là Anh, sẽ nhận ra rằng
không phải ai cũng đồng ý với quan điểm này. Ví dụ ở Hungary, các vụ tham
nhũng, chế độ chế độ gia đình trị và thân hữu (nepotism), thiếu đa nguyên truyền
thông (media pluralism) và những mối đe dọa cho tính độc lập của nền tư pháp đã
dẫn đến cuộc
đấu tranh gay gắt với Liên minh châu Âu.
Các nước
giàu thường có thể chế mạnh. Nhưng nhiều lãnh đạo (hay muốn trở thành lãnh đạo)
lại sẵn sàng làm suy yếu pháp quyền. Họ không coi thể chế là căn nguyên cho sự
thịnh vượng, mà chỉ là một yếu tố tình cờ xảy ra đồng thời mà thôi.
Theo
các nhà nghiên cứu, tại sao chất lượng thể chế lại khác nhau giữa các quốc gia?
Nghiên cứu
của họ bắt đầu từ một yếu tố rõ ràng không còn tác động trực tiếp đến sự thịnh
vượng kinh tế ngày nay: điều kiện sống vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa thực dân
châu Âu từ thế kỷ 14. Giả
thuyết của họ là, những lãnh thổ càng giàu có và khó sống đối với
người đến từ nơi khác thì càng thu hút các cường quốc thực dân tới cướp bóc tài
sản bản địa.
Trong trường
hợp này, họ đã xây dựng các thể chế mà không quan tâm đến người dân bản địa. Vì
thế dẫn đến sự tồn tại của các thể chế kém chất lượng trong suốt thời kỳ thuộc
địa, và tiếp tục kéo dài sau khi quốc gia giành độc lập, dẫn đến điều kiện kinh
tế tồi tệ ngày nay.
Tất cả những
điều này là do (và đây là một lĩnh vực khác mà các nhà kinh tế đoạt giải năm
nay đã đóng góp) thể chế tự tạo ra các điều kiện
tồn tại lâu dài cho chính mình.
Ngược lại,
ở những nơi dễ tiếp cận và kém phát triển hơn, thực dân không cướp tài nguyên
mà chọn định cư và cố gắng tạo ra của cải. Vì lợi ích (ích kỷ) của bản thân, họ
đã xây dựng các thể chế dân chủ có lợi cho người dân bản địa.
Các nhà
nghiên cứu đã kiểm tra giả thuyết trên bằng cách xem xét dữ liệu lịch sử. Trước
hết, họ phát
hiện ra một “sự đảo ngược lớn” về vận may. Những vùng đô thị hóa
nhanh và đông dân nhất vào năm 1500 đã biến thành nghèo nhất vào năm 1995. Thứ
đến, họ phát hiện ra rằng những nơi dân định cư chết sớm vì bệnh tật, do đó
không thể ở lại – trong khi dân bản địa phần lớn có miễn dịch – ngày
nay cũng là những nơi nghèo hơn.
Nhìn vào
nguồn gốc thuộc địa của các thể chế là một nỗ lực để gỡ rối chuỗi nhân quả. Đây
có lẽ cũng là lý do chính khiến ủy ban giải thưởng cho rằng, mặc dù các nhà
kinh tế năm nay không phát minh ra ý tưởng là thể chế quan trọng, nhưng những
đóng góp của họ vẫn xứng đáng với sự tôn vinh cao nhất.
Daron
Acemoglu, một trong ba học giả giành giải Nobel kinh tế 2024. Vassilis Rebapis / EPA
Có
ý kiến rằng công trình này chỉ đơn giản lập luận “dân chủ có nghĩa là tăng trưởng kinh tế“. Nói vậy có đúng không?
Không hoàn
toàn. Ví dụ, nghiên cứu của họ không khẳng định rằng áp đặt thể chế dân chủ lên
một quốc gia đang có các thể chế không hoạt động hiệu quả sẽ mang lại kết quả tốt.
Không có lý do gì để một lãnh đạo dân chủ không tham nhũng.
Thể chế là
một tổng thể. Và đó là lý do tại sao ngày nay, việc bảo vệ tất cả các khía cạnh
của nó là rất quan trọng. Ngay cả việc làm suy yếu một phần nhỏ sự bảo vệ mà
nhà nước cung cấp cho công dân, người lao động, doanh nhân và nhà đầu tư cũng
có thể dẫn đến một vòng xoáy tiêu cực, nơi người dân không cảm thấy an toàn và
được bảo vệ trước tình trạng tham nhũng hoặc bị truất hữu tài sản
(expropriation). Điều này dẫn đến sự suy giảm mức thịnh vượng và gia tăng mức ủng
hộ những quy định chuyên chế.
Cũng có những
trường hợp ngoại lệ. Trung Quốc rõ ràng đang cố gắng thúc đẩy ý tưởng rằng, chủ nghĩa tư bản mà không có tự do dân chủ vẫn có
thể đạt dược thành công kinh tế.
Sự phát
triển của Trung Quốc từ sau các cải cách của Đặng Tiểu Bình vào
thập niên 1980 có tương quan với việc quyền sở hữu của các doanh nhân và doanh
nghiệp được củng cố mạnh mẽ hơn. Theo nghĩa này, đây là một minh chứng điển
hình về sức mạnh của thể chế.
Trung Quốc
ngày nay có hệ thống chuyên chế rõ rệt hơn nhiều so với các nền dân chủ phương
Tây. Và Trung Quốc vẫn nghèo hơn nhiều so với các nước dân chủ, dù là nền kinh
tế lớn thứ hai thế giới. GDP bình quân đầu người của Trung Quốc thậm chí không
bằng một phần năm của Mỹ, và họ vẫn đang đối mặt với nhiều thách
thức kinh tế lớn của riêng mình.
Trên thực
tế, theo Acemoglu,
chế độ ngày càng chuyên chế của Tập Cận Bình là lý do khiến nền kinh tế Trung
Quốc đang “thối rữa từ gốc rễ”.
Hiện
nay, các thể chế dân chủ trên thế giới đang đi theo xu hướng nào?
Acemoglu
đã bày tỏ lo ngại rằng các thể chế dân chủ ở Mỹ và châu Âu đang mất đi sự ủng hộ
từ người dân. Và thực tế là, nhiều nền dân chủ dường như đang nghi ngờ tầm quan
trọng của việc bảo vệ các thể chế của họ.
Họ đang
tán dương việc trao nhiều quyền lực hơn cho những kẻ mị dân, những người cho rằng
có thể thành công mà không cần có bộ quy tắc mạnh mẽ để kiềm chế quyền lực của
các nhà lãnh đạo. Tôi nghi ngờ liệu giải thưởng (Nobel Kinh tế) năm nay có tác
động chút nào đến họ hay không.
Nhưng có một
thông điệp quan trọng phải nhớ từ công trình của các nhà kinh tế năm nay: cử
tri cần thận trọng, không nên từ bỏ sự ổn định và thịnh vượng kinh tế chỉ vì cảm
thấy không hài lòng với một số quy tắc dù đôi lúc gây phiền toái nhưng lại giúp
duy trì sự thịnh vượng đó.
R.F.
—
Renaud Foucart là Giảng viên cao cấp về Kinh tế, Trường
Quản trị Đại học Lancaster, Đại học Lancaster
Nguồn: Nobel
economics prize: how colonial history explains why strong institutions are
vital to a country’s prosperity – expert Q&A The Conversation, ngày 14
tháng 10 năm 2024.
No comments:
Post a Comment