Trao
đổi với “Lính già Việt Nam Cộng hòa” Chu Tất Tiến (Kỳ 1)
Cù
Huy Hà Vũ
30/04/2023
https://baotiengdan.com/2023/04/30/trao-doi-voi-linh-gia-viet-nam-cong-hoa-chu-tat-tien-ky-1/
Tôi và Chu Tất Tiến, tác giả của nhiều bài viết dưới bút danh “Lính già
Chu Tất Tiến”, là những “người quen” theo đúng nghĩa đen của từ này. Để cho rõ
ràng hơn, sau đây tôi sẽ gọi anh là “Lính già Việt Nam Cộng hòa” Chu Tất Tiến.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/05/1.jpg
Ảnh: Chu Tất Tiến đến thăm và tặng sách Cù Huy Hà Vũ
tại nhà ở Garden Grove, ngày 6/2/2023. Nguồn: Tác giả gửi cho TD
Trước khi tôi bị chính quyền Việt Nam bắt giam vào ngày 5 tháng 11 năm
2010 rồi sau đó kết án 7 năm tù và 3 năm quản chế về “Tội tuyên truyền chống
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Chu Tất Tiến đã phỏng vấn tôi nhiều
cuộc về hiện tình Việt Nam. Cuối năm ngoái, ông đã đến thăm tôi và vợ tôi, Luật
sư Nguyễn Thị Dương Hà, tại nhà chúng tôi tại Quận Cam (Orange County), Hoa Kỳ.
Quận Cam được mệnh danh “Little Sài Gòn, thủ đô của những người tỵ nạn cộng
sản Việt Nam” bởi nơi đây người Việt trên đất Mỹ mà tuyệt đại đa số có liên hệ
đến Việt Nam Cộng hòa sống đông đảo nhất. Đông đảo đến nỗi ra đường ở các thành
phố Garden Grove, Westminster… chỉ nghe rặt tiếng Việt, thi thoảng mới thấy một
người Mỹ bản địa, dù trắng dù đen. Vì lý do này mà có người Việt sống tại đây
nói: “Đêm nằm mơ đi Mỹ”! Còn vợ chồng tôi thì bảo nhau: Đây không chỉ là
“Little Sài Gòn” mà thực sự là “Little Việt Nam”.
Chu Tất Tiến là con người bộc trực. Anh kể: “Khi tôi đang học ở một
trường quân sự ở Mỹ thì xảy ra vụ lính Mỹ thảm sát 500 người dân ở Mỹ Lai. Tôi
lập tức nổi sùng, lớn tiếng lên án tội ác này của lính Mỹ. Thế là tôi bị nhà
trường liệt vào đối tượng ‘anti – American’.” Rồi Chu Tất Tiến lấy ra
một quyển sách nhan đề “The undaunted voices for human rights in Vietnam” (Những
tiếng nói kiên cường cho nhân quyền tại Việt Nam) và ký tặng tôi. Anh nói: “Cuốn
sách này tập hợp những bài tôi phỏng vấn các nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân
quyền ở Việt Nam, trong đó có bài tôi phỏng vấn anh nhân ngày 30 tháng 4, đặc
biệt sau khi anh gửi Quốc hội Việt Nam “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân
cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc
hiệu để hòa giải dân tộc” vào ngày 30/8/2010”.
Tôi nói với Chu Tất Tiến rằng Tòa án Việt Nam đã lấy Kiến nghị này làm một
trong những bằng chứng để kết án tôi 7 năm tù và 3 năm quản chế về “Tội tuyên
truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bản án ghi rõ: “Bài:
‘Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền
Việt Nam cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc’. Vũ trả lời
phỏng vấn đài RFA ngày 31/8/2010, đồng thời gửi lên trang “Bauxite Vietnam”. Vũ
bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Phê phán Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây chia rẽ, thù hằn dân tộc bằng lời lẽ: “ …Tiếc
thay cho ban lãnh đạo nhà nước Việt nam thống nhất đã không làm được như thế mà
ngược lại – phải nói thật – còn sát muối vào vết thương chiến tranh chưa kịp
lên da bằng việc tập trung cải tạo trong hàng năm trời cả trăm nhìn quân nhân
viên chức VNCH, ….đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ vào vòng xoáy
thù hận, dẫn đến một số quay ra chống chính quyền mới để rồi bị kết tội xâm phạm
An ninh quốc gia”.
Chu Tất Tiến còn là một con người tài hoa và có quan hệ rộng rãi. Anh dạy
võ, viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc và hát khá hay. Vợ chồng tôi đã được anh
đôi lần mời đến dự những buổi biểu diễn văn nghệ do anh cầm chịch, với sự tham
gia của hai con trai anh với tư cách nhạc công. Mới đây, anh còn giới thiệu tôi
gặp một số người bạn của anh là cựu quan chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, xuất
thân Trường Quốc gia Hành chính để mạn đàm thời cuộc…
Những ngày cuối tháng Tư này, như mọi năm, những người Việt gốc gác Việt
Nam Cộng hòa rầm rộ kỷ niệm “Ngày quốc hận 30-4” vì cho rằng ngày đó Việt Nam
Dân chủ cộng hòa đã cưỡng chiếm Việt Nam Cộng hòa dẫn đến họ “mất nước”. Chu Tất
Tiến về phần mình viết bài “Hiệp định Geneva 1954 và hai quốc gia Việt Nam” và
gửi cho các diễn đàn trên mạng vào ngày 26/4 vừa qua.
Đây là một bài viết công phu nhưng đáng tiếc là nhiều thông tin và nhận định
trong bài của anh rất sai sự thật. Tôi, với tư cách “phản biện chuyên nghiệp”,
sẽ chứng minh điều này như sau đây (các phản biện của tôi được đặt dưới các
câu, đoạn trích từ bài viết của Chu Tất Tiến).
Chu Tất Tiến viết: “Sau khi Pháp thua trận ở Đông Nam Á, quân đội Nhật tiến
vào Việt Nam giải giới Pháp, Pháp bỏ chạy. Năm 1945, Nhật thua trận, Pháp trở lại
Việt Nam. Chính trong giai đoạn này, ngày 14 tháng 6, năm 1946, tại Hội Nghị
Fontainebleau, Hồ Chí Minh, đại diện cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ký thỏa ước
mời Pháp trở lại Việt Nam”.
– Trên thực tế, chỉ ba tuần sau khi Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày 2/9/1945, đêm 23/9/1945, thực dân Pháp
được sự giúp đỡ trực tiếp của quân Anh đã nổ súng ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Tiếp đó, ngày 28/2/1946 Pháp đã ký với Trung
hoa dân quốc một hiệp ước cho phép Pháp hay thế quân đội Trung hoa dân quốc
giải giáp quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam và thiết lập quyền kiểm soát của Pháp tại
đây cũng như tại Lào và Campuchia. Đổi lại, vẫn theo hiệp ước
này, Pháp nhượng lại cho Trung hoa dân quốc một số quyền lợi về kinh tế. Do
đó, việc Pháp tiến quân ra miền Bắc chỉ còn là vấn đề thời gian. Để tạo sự hòa
hoãn nhằm củng cố năng lực kháng chiến của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp là Jean
Sainteny một hiệp định sơ bộ. Theo thỏa thuân này, Chính phủ Pháp công nhận nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp
và Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào Việt Nam thay Trung hoa
dân quốc để giải giáp quân Nhật, đạo quân này sẽ phải rút khỏi Việt Nam sau 5
năm. Như vậy, Hội nghị giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp tại lâu đài
Fontainebleau ở Pháp từ ngày 6/7 đến ngày 10/9/1946 diễn ra sau khi quân Pháp
đã vào Việt Nam. Mặt khác, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng làm
trưởng đoàn mà không có sự tham dự của Hồ Chí Minh. Có thể kiểm chứng tại Wikipedia.
Chu Tất Tiến viết: “Chính Tướng Vy Quốc Thanh, nhận lệnh của Bắc Kinh, chỉ
đạo chiến dịch Điện Biên Phủ, và ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp thi hành, bất chấp
sẽ phải hy sinh hàng vạn dân quân miền Bắc. (Võ Nguyên Giáp, sau này trả lời phỏng
vấn của một phóng viên Pháp, đã nói: “dù có phải hy sinh cả trăm ngàn quân, mà
dành được chiến thắng, chúng tôi cũng sẵn sàng hy sinh.”) Vì “chiến thuật Biển
Người”, thí quân như thế, mà tổn thất cả hai bên rất cao, mỗi bên chết và
bị thương vài chục ngàn người, chưa kể những người dân trong các vùng chung
quanh bị buộc phải gánh đạn, vận chuyển lương thực cho bộ đội, đã chết vì bệnh,
vì kiệt sức nhiều đến nỗi không thể đếm được. Vì thế, mà Pháp phải đầu hàng.”
– Không có tài liệu nào, kể cả của Trung Quốc, cho thấy “Tướng Vy Quốc Thanh
chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ và ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp”. Ngược lại, Hồi ức của Trương Đức Duy, cựu Đại sứ Trung Quốc tại
Việt Nam; Văn Trang, nguyên cán bộ Đoàn Cố vấn Trung Quốc tại Việt nam và Vương
Đức Luân, nguyên cán bộ Đoàn Cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam công bố nhân dịp 50
năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2004) đăng trên Báo điện tử “Hoa Hạ
kinh vĩ”(Trung Quốc) ngày 7-4-2007 ghi rõ: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng chỉ
huy chiến dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh là Tổng cố vấn quân sự. Cố vấn quân sự
các cấp của phía Trung Quốc ra tiền tuyến dốc toàn lực hiệp tác giúp đỡ.”
– Không có tài liệu nào cho thấy Quân đội nhân dân Việt Nam dùng “chiến
thuật Biển người” trong chiến dịch Điện Biên Phủ cả. Ngược lại, Đại tướng
Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp theo phương châm “phải giành thắng lợi tối đa với
xương máu tối thiểu.” Nhà cầm quân này của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tâm sự với
tôi, Cù Huy Hà Vũ, vào ngày 4/9/2003: “Quyết định khó khăn nhất trong cuộc
đời cầm quân của tôi là “kéo pháo ra”, thay đổi từ “đánh nhanh thắng nhanh”
sang “đánh chắc tiến chắc” vì phương án đầu không bảo đảm chắc thắng. Khi
tiễn tôi ra mặt trận, Bác chỉ dặn tôi: tướng quân tại ngoại, có chắc thắng thì
hãy đánh, ngược lại là “hết vốn”. Mặt trận Nha Trang năm 1946 là một bài học
xương máu. Được Bác cử đi thị sát mặt trận này, tôi nghiên cứu thấy thế địch mạnh
hơn hẳn ta nên tôi đã yêu cầu các đồng chí chỉ huy mặt trận rút quân để bảo
toàn lực lượng nhưng các đồng chí đó không nghe. Kết quả là mặt trận vỡ và quân
ta bị tổn thất nặng nề. Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) sau này cũng vậy,
tôi không tán thành đánh tiếp sau đợt 1 vì chắc chắn sẽ tiếp tục bị thiệt hại bởi
yếu tố bất ngờ đã không còn. Tựu trung lại là phải giành thắng lợi tối đa với
xương máu tối thiểu. Tôi là Võ nhưng lại là Văn vì tôi thương người, thương anh
em chiến sĩ lắm”. Tôi đã thuật lại tâm sự này của danh tướng họ Võ trong
bài “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Chân dung một huyền thoại” được
tôi viết nhân dịp kỷ niệm 55 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, được nhiều sách báo
Nhà nước Việt Nam và nước ngoài đăng (Sau khi bỏ tù tôi, chính quyền Việt Nam một
mặt “đốt” các trang điện tử trong nước đăng bài viết này của tôi nhưng mặt
khác, “cướp cạn” bản quyền của tôi đối với “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Chân
dung một huyền thoại” để đặt tên cho các cuốn sách, bài báo, triển lãm vinh
danh ông.) Theo ghi nhận tại Wikipedia, quân Pháp có 1.747 tới 2.293 người chết,
5.240 tới 6.650 người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù
binh, Quân đội nhân dân Việt Nam có 4.020 người chết,[3] 9.691 người bị
thương,[28] và 792 mất tích. Vậy không hiểu Chu Tất Tiến dựa vào nguồn tài liệu
nào để khẳng định “mỗi bên chết và bị thương vài chục ngàn người”?!
Chu Tất Tiến viết: “Hiệp định được ký bởi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
Pháp, Trung Cộng, Liên Sô, và Anh. Quốc gia Việt Nam lãnh đạo bởi Quốc
Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, và Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, từ chối
ký vào hiệp định, còn Mỹ thì ghi nhận về sự đình chiến và tuyên bố rằng Mỹ sẽ
kiềm chế những đe dọa hoặc sử dụng võ lực đề làm phiền họ.”
– Ngày 21/7/1954, tại Hội nghị Geneva, Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc
phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thay mặt Tổng tư lệnh Quân dội nhân dân Việt
Nam và Tướng Henri Delteil, Quyền Tổng Tư lệnh Lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông
Dương, đã ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Như vậy, Hiệp định
này, còn gọi là Hiệp định Geneva 1954, là một hiệp định giữa Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Pháp. Do đó, Chu Tất Tiến nói Trung Cộng, (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa),
Liên Sô và Anh” ký hiệp định này là hoàn toàn sai.
– Bản thân Chu Tất Tiến trước đó viết: “Chính phủ hợp pháp của Việt Nam
do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo, thập niên đó, quá yếu, vì thay đổi liên tục
nên không được quốc tế tôn trọng, không được hỏi ý kiến. (Từ 1948 đến 1954, Quốc
Trưởng Bảo Đại thay đổi 6 lần Thủ Tướng: Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần
Văn Hữu, Nguyễn văn Tâm, Bửu Lộc, và cuối cùng là Ngô Đình Diệm 1954-1955).”
Khoan bàn đến chuyện có phải chính phủ của Bảo Đại vì quá yếu hay bị Pháp coi
là bù nhìn của Pháp nên bị nước này gạt ra khỏi tiến trình đàm phán hiệp định
đình chiến với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì việc chính phủ Quốc gia Việt Nam
không được tham gia đàm phán hiệp định này là một rất rõ ràng. Cũng rất
rõ ràng rằng một chính phủ chỉ có thể từ chối ký một hiệp định nếu chính phủ
này là một bên đàm phán hiệp định! Do đó, việc Chu Tất Tiến khẳng định “Quốc
gia Việt Nam lãnh đạo bởi Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, và Ngoại
Trưởng Trần Văn Đỗ, từ chối ký vào hiệp định” chẳng những hoàn toàn sai sự thật
mà còn mâu thuẫn gay gắt với chính mình.
Chu Tất Tiến viết: “Để tránh những quan niệm rằng sự chia cắt này sẽ là
vĩnh viễn, một bản tuyên bố không có chữ ký (The unsigned proclamation), nói
trong điều 6: “Hội nghị nhận thức rằng mục đích quan trọng của hiệp định liên
quan đến Việt Nam là chấm dứt những nghi vấn có tính chất quân sự về sự chấm dứt
sự thù địch, và vùng trái độn quân sự chỉ là tạm thời và không thể được định
nghĩa như là thiết lập một thể chế chính trị hoặc một biên giới chính tri…”
– Viện dẫn này của Chu Tất Tiến rất thiếu chính xác khi so sánh với Điều
6 trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva 1954 bằng tiếng Pháp và tiếng
Anh.
Acte final de la conférence de Genève et déclarations annexes (21 juillet
1954).
6. La Conférence constate que l’accord relatif au Vietnam a pour but
essentiel de régler les questions militaires en vue de mettre fin aux
hostilités et que la ligne de démarcation militaire est une ligne provisoire et
ne saurait en aucune façon être interprétée comme constituant une limite
politique ou territoriale. Elle exprime la conviction que la mise en oeuvre des
dispositions prévues dans la présente déclaration et dans l’accord sur la
cessation des hostilités, crée les prémisses nécessaires pour la réalisation
dans un proche avenir du règlement politique au Vietnam.
The Final Declarations of the Geneva Conference July 21, 1954.
6. The Conference recognizes that the essential purpose of the Agreement
relating to Viet-nam is to settle military questions with a view to ending
hostilities and that the military demarcation line is provisional and should
not in any way be interpreted as constituting a political or territorial
boundary. The Conference expresses its conviction that the execution of the
provisions set out in the present Declaration and in the Agreement on the
cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the
near future of a political settlement in Viet-Nam.
Như vậy, “la ligne de démarcation militaire est une ligne provisoire et
ne saurait en aucune façon être interprétée comme constituant une limite
politique ou territorial” (tiếng Pháp) và “the military demarcation line is provisional
and should not in any way be interpreted as constituting a political or
territorial boundary” (tiếng Anh) tương đương trong tiếng Việt là “Đường ranh
giới quân sự tạm thời không thể diễn giải theo bất cứ cách nào như là một ranh
giới chính trị hay lãnh thổ.”
(Còn tiếp)
______
Tác giả:Tiến sĩ Luật
Cù Huy Hà Vũ là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân
chính trị Việt Nam, từng là cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam trong 30 năm. Hiện
ông sống tại California, Hoa Kỳ.
Lưu ý của
Tiếng Dân: Trong bài tranh luận này, một số nơi tác giả Cù Huy Hà Vũ sử dụng
Wikipedia làm cơ sở để kiểm chứng thông tin. Tuy nhiên, Wikipedia không phải là
nguồn tin đáng tin cậy. Chính Wikipedia có bài “Wikipedia is not a reliable source” (Wikipedia không
phải là nguồn đáng tin cậy), vì nó có thể được bất kỳ ai đó chỉnh sửa vào bất cứ
lúc nào, nhất là những thông tin về lịch sử, đôi khi được những người của “bên
thắng cuộc” vào chỉnh sửa theo chủ ý của họ… Cho nên trang Wikipedia cảnh báo:
Không nên coi Wikipedia là nguồn tham khảo dùng trong bài viết.
*****
Trao
đổi với “Lính già Việt Nam Cộng hòa” Chu Tất Tiến (Kỳ cuối)
Cù Huy Hà Vũ
30/04/2023
https://baotiengdan.com/2023/04/30/trao-doi-voi-linh-gia-viet-nam-cong-hoa-chu-tat-tien-ky-cuoi/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/05/1-1.jpg
Ảnh: Cù Huy Hà Vũ,
Chu Tất Tiến và những người bạn. Nguồn: Tác giả gửi tới TD
Chu Tất Tiến viết: “Thực tế, Hiệp Định Geneva 1954 là một sự thất bại
chính trị nặng nề cho quốc tế, vì Miền Bắc không tôn trọng hiệp định này, trừ
việc chấp nhận vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự. Lý do thứ hai: Hiệp ước này đã
được soạn thảo quá nhanh, chưa đầy hai tháng sau trận Điện Biên Phủ và chưa được
mọi bên đồng thuận. Miền Bắc, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, mới đầu cũng ngần ngừ
không ký vì không tin là có tổng tuyển cử sau 2 năm, nhưng sau vì áp lực của Bắc
Kinh và điện Kremlin, đại diện Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ký vào
biên bản. Ngay sau đó, Việt Minh đã chuẩn bị kế hoạch xâm lăng miền Nam bằng
cách gài lại một số điệp viên, làm căn cước giả, hoặc tình nguyện vào các trường
Quân Sự, hoặc làm việc với chính quyền miền Nam, “chui sâu, trèo cao”, có kẻ
làm tới Phụ Tá của Tổng Thống! (Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Thành
Trung…) Một số lợi dụng hệ thống chùa chiền lỏng lẻo, cạo đầu làm sư, biến chùa
làm cứ điểm ém quân. Tinh vi hơn nữa, là tại một số làng xã xa xôi, trước khi
di chuyển ra Bắc, du kích buộc các cô thôn nữ phải lấy du kích, ngay cả thương
bệnh binh, cố tình gieo thai cho những cô thôn nữ này, để một mai quay lại, thì
đã có sẵn vợ và con làm gián điệp. Đây là sự kiện chứng tỏ Cộng Sản Việt Nam,
theo lệnh của Cộng Sản Bắc Kinh, đã chính thức phản bội hiệp định Geneva, nhằm
thực hiện mưu đồ của Cộng Sản Quốc Tế là nhuộm đỏ toàn bộ Đông Nam Á Châu, dần
tiến chỗ Quốc Tế Đại Đồng, tức là nhuộm đỏ cả Thế Giới.”
– Đảng cộng sản Việt Nam không hề giấu giếm rằng một trong những mục tiêu
hàng đầu của Đảng là thống nhất đất nước bằng mọi giá. Do đó, Hiệp định Geneva
1954 mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với Pháp chỉ là bước đầu tiên trên con đường
thống nhất hai miền Nam – Bắc. Việc Quân đội nhân dân Việt Nam và các tổ chức đảng
cộng sản chôn giấu vũ khí, cài người ở lại miền Nam trước khi tập kết ra miền Bắc
theo Hiệp đinh cho thấy họ đã tính tới khả năng Mỹ và chính quyền miền Nam do Mỹ
gây dựng sẽ không tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và sẽ được tổ
chức vào tháng 7 năm 1956 như Hiệp định quy định (mà Chu Tất Tiến có nhắc tới)
và như vậy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các lực lượng cộng sản ở miền Nam phải
tiến hành chiến tranh để thống nhất đất nước. Trên thực tế, dưới sự chỉ huy của
Mỹ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm đã không thực hiện tổng tuyển
cử để thống nhất đất nước đồng thời thực hiện chiến dịch “Tố cộng – Diệt cộng”. Wikipedia cung cấp nhiều nguồn tin về chiến dịch
này. Trong khoảng thời gian 1955-1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà,
đã có 48.250 người bị tống giam. Theo 1 nguồn khác từ Mỹ, đã có khoảng
24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm
tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại
tập trung.[22] Năm 2015, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng
phát biểu rằng “Trong những năm 1954 – 1959, ở miền Nam đã có 466.000 đảng viên
và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người
bị giết. Như vậy, việc Việt Nam Cộng hòa vi phạm Hiệp định Geneva 1954 đã dẫn đến
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các lực lượng cộng sản ở miền Nam vi phạm Hiệp định
bằng tiến hành chiến tranh ở miền Nam để thống nhất đất nươc.
– Chu Tất Tiến nói “Cộng Sản Việt Nam, theo lệnh của Cộng Sản Bắc Kinh,
đã chính thức phản bội hiệp định Geneva” là hoàn toàn sai sự thật. Ngược lại là
đằng khác. Chính Trung Quốc không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất đất
nước vì một Việt Nam thống nhất sẽ tiệt tiêu tham vọng bành trướng lãnh thổ về
phía Nam của họ. Đã có nhiều tài liệu cho thấy điều này mà mới nhất là “Bí mật lịch sử tháng 4 năm 1975: Trung Quốc định tung lính Dù
nhảy xuống Biên Hòa chặn Bắc Việt?” đăng trên RFA ngày 26/4/2023. Theo tài
liệu này, Trung Quốc đã cho người đến gặp ông Nguyễn Xuân Phong, nguyên Phó trưởng
phái đoàn Việt Nam Cộng hòa tại Paris và đưa ra một kế hoạch can thiệp quân sự
của Trung Quốc nhằm ngăn chặn Bắc Việt chiếm Miền Nam Việt Nam, thống nhất đất
nước. Cụ thể là Trung Quốc sẽ thả dù hai sư đoàn dù này xuống Biên
Hòa trong khuôn khổ một “lực lượng quốc tế” sẽ được thành lập nếu Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh yêu cầu quốc tế giúp đỡ
Chu Tất Tiến viết: “Về vấn đề hai quốc gia hay một quốc gia, thực tế cho
thấy Việt Nam, được quốc tế gọi là “The State of Vietnam” hoặc “L’Etat du
Vietnam”, dịch là Quốc Gia Việt Nam, là dòng chính của Lịch Sử, truyền từ đời
Vua Hùng qua các thời đại đến Nhà Nguyễn, và Quốc Trưởng Bảo Đại là hậu duệ
chính thức của Triều Nguyễn. Chính Quốc Trưởng Bảo Đại đã mời Ngô Đình Diệm,
nguyên Thượng Thư Bộ Lại làm Thủ Tướng. Những yếu tố lịch sử này chứng minh Việt
Nam là một Quốc Gia chính thức và hợp pháp. Sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý, Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm đã trở thành Tổng Thống, ông đã đổi tên nước là “Việt Nam Cộng Hòa”,
được quốc tế chính thức công nhận là “The Republic of Vietnam”, một quốc gia có
quan hệ ngoại giao cấp Đại Sứ với 101 quốc gia, và cấp Lãnh sự với 4 quốc gia
khác. Năm 1957, Hoa Kỳ bảo trợ Viêt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc được Đại Hội Đồng
bỏ phiếu, 40 thuận và 8 chống, trong đó có Liên Sô, Trung Cộng. Cuối cùng, Liên
Sô dùng quyền lực phủ quyết (Veto) không cho quốc gia Việt Nam gia nhập Liên Hiệp
Quốc với tư cách là thành viên chính thức, vì thế, cho tới 1975, Việt Nam Cộng
Hòa vẫn chỉ là tham dự viên.”
– “Truyền” là “trao lại”, tức có sự kế thừa tự nguyện. Ở Việt Nam, không
kể thời các Vua Hùng, đã có 10 triều đại phong kiến (vua đứng đầu quốc gia) là:
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn và Nguyễn. Như vậy, các
triều đại phong kiến kế tiếp nhau thông qua đảo chính hay lật đổ dưới hình thức
này hay hình thức khác. Bản thân triều đại Nguyễn đã kết thúc vào ngày
30/8/1945 khi Hoàng đế Bảo Đại – Nguyễn Phúc Vính Thụy đọc tuyên bố thoái vị và
trao lại ấn và kiếm vàng tượng trưng quyền lực của Nhà Nguyễn cho đại diện
Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Bộ trưởng Trần Huy Liệu
và Bộ trưởng Cù Huy Cận (Bảo Đại có kể chuyện này trong hồi ký “Con Rồng Việt
Nam” (Le Dragon d’Annam) của ông). Do đó, Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc
trưởng không phải là chính quyền được Nhà Nguyễn truyền lại, càng không phải
chính quyền được các Vua Hùng truyền lại. Trên thực tế, Quốc gia Việt Nam là do
Pháp dựng lên năm 1949 nhằm giúp Pháp chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi
Pháp tái xâm lược Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Bản thân Việt Nam Cộng
hòa ra đời trên cơ sở giải thể Quốc gia Việt Nam thông qua một cuộc “trưng cầu
dân ý” do Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tổ chức, đồng nghĩa Việt
Nam Cộng hòa không phải là chính quyền kế thừa Quốc gia Việt Nam vì không có sự
chuyển giao tự nguyện chức vụ quốc trưởng Quốc gia Việt Nam từ Bảo Đại sang Ngô
Đình Diệm. Như vậy, Chu Tất Tiến nói Việt Nam Cộng hòa là “truyền nhân” theo
nghĩa chính thể thừa kế từ các Vua Hùng truyền lại là sai hoàn toàn so với lịch
sử. Cũng như vậy, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải là chính quyền được Nhà
Nguyễn truyền cho, càng không phải chính quyền được các Vua Hùng truyền cho. Chỉ
có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “truyền nhân” của hai chính thể trước
đó là Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam khi hai
chính thể này cùng trao lại quyền lực cho nó vào ngày 2/7/1976.
– Theo Wikipedia, Việt Nam Cộng hòa được sự công nhận của 77 quốc
gia, không phải 101 quốc gia như Chu Tất Tiến nói. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
sự công nhận của khoảng 20 quốc gia. Tuy nhiên, để trở thành “quốc gia” theo
đúng nghĩa thì chính quyền phải thực hiện được quyền lực của mình đối với toàn
bộ lãnh thổ quốc gia. Với lý do này, Việt Nam Cộng hòa và ngay cả Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa cho đến trước ngày 30/4/1975 cho dù được sự công nhận của một số
quốc gia khác không phải là “quốc gia” vì không thực hiện được chủ quyền đối với
toàn bộ lãnh thổ quốc gia gồm cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chỉ sau khi thống
nhất đất nước, đặt toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dưới sự kiểm soát của mình
thì Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và tiếp đó Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới
trở thành “quốc gia” theo đúng nghĩa. Việc Liên Hợp Quốc kết nạp Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam làm thành viên vào ngày 20/9/1977 là sự xác nhận chính thức
quy chế “quốc gia” của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chu Tất Tiến viết: “Trở lại việc xâm lăng hay nội chiến: Sự kiện chính
quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cho hàng chục Sư đoàn kéo theo đại pháo,
xe tăng, đi dọc đường mòn Trường Sơn, (mà sau này là Đường Mòn Hồ Chí Minh) tiến
vào miền Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa, thì đã là khởi đầu một cuộc xâm lăng
không tuyên bố, không khác gì Pháp xâm lăng Viêt Nam lần thứ hai dựa vào Hiệp Ước
Fontainebleau do chính Hồ Chí Minh ký với Pháp. Đến năm 1975, khi từng đoàn xe
tăng mang cờ đỏ sao vàng băng qua cầu Hiền Lương, vượt qua khu Phi Quân Sự của
miền Nam, tấn công các thành phố miền Nam, thì là cuộc Xâm Lăng chính thức của
thế kỷ 21, cũng không khác gì cuộc xâm lăng mà Nga chủ động tấn công Ukraine hiện
tại, nghĩa là cực kỳ vô lý, vô chính nghĩa, và vô luật pháp.”
– Như trên đã nói, vĩ tuyến 17 theo Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam và Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva 1954 không phải là biên giới giữa
hai quốc gia. Còn nếu Chu Tất Tiến phủ nhận hai văn kiện quốc tế này để tự ý
chia Việt Nam thành hai quốc gia, Việt Nam Cộng hòa nằm phía Nam vĩ tuyến 17,
thì Chu Tất Tiến giải thích thế nào Lời mở đầu Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm
1956 ghi câu “Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu
đến Ải Nam Quan”? Không lẽ Ải Nam quan nằm dưới vĩ tuyến 17!? Còn nếu Chu Tất
Tiến thừa nhận Ải Nam Quan giáp giới với Trung Quốc là cực Bắc của Việt Nam Cộng
hòa thì rõ ràng không có chuyện Việt Nam bị chia thành hai quốc gia, Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cộng sản và Việt Nam Cộng hòa chống cộng, ở vĩ tuyến 17. Do
đó, chiến tranh giữa Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyệt nhiên
không phải là một cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia, mà là một cuộc chiến
tranh giữa những người có chung một quốc gia là Việt Nam, còn gọi là “nội chiến”
(civil war). Nói cách khác, không có chuyện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – miền Bắc
“xâm lược” Việt Nam Cộng hòa – miền Nam vì thuật ngữ “xâm lược” chỉ áp dụng
trong trường hợp quốc gia này tấn công quân sự quốc gia khác mà thôi!
Bên cạnh Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954, cùng ngày 21/7/1954,
Chính phủ Mỹ còn ra một tuyên bố riêng, nhấn mạnh: “Chúng tôi chia sẻ hy vọng rằng
các hiệp định sẽ cho phép Campuchia, Lào và Việt Nam đóng vai trò của mình với
tư cách các quốc gia hoàn toàn độc lập, có đầy đủ chủ quyền, trong cộng đồng
các quốc gia hòa bình, và sẽ cho phép người dân trong khu vực này quyết định định
tương lai của chính mình.” Cùng trong Tuyên bố này, Chính phủ Mỹ khẳng định “Việt
Nam là một quốc gia không thể bị chia cắt” khi tuyên bố: “Liên quan đến phát biểu
trong tuyên bố liên quan đến bầu cử tự do ở Việt-Nam, Chính phủ Mỹ muốn làm rõ
quan điểm của mình đã thể hiện trong tuyên bố tại Washington ngày 29 tháng 6
năm 1954, như sau: Trong trường hợp các quốc gia hiện bị chia cắt trái với ý muốn
của họ, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm cách đạt được sự thống nhất thông qua các cuộc
bầu cử tự do có sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để đảm bảo rằng các cuộc bầu cử
được tiến hành một cách công bằng.”
Điều 1 Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt
Nam cũng nhắc lại lập trường “Việt Nam là một quốc gia không thể bị chia cắt” của
Mỹ và các nước khác khi quy định: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam đã công nhận.”
Tóm lại, cả Hội nghị Genève 1954 lẫn Hội nghị Paris 1973 về Việt Nam nói
chung, Chính phủ Mỹ nói riêng, đều khẳng định “Việt Nam là một quốc gia không
thể bị chia cắt”. Từ đó toát lên một sự thật lịch sử là chiến tranh giữa Việt
Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một cuộc nội chiến (civil war) vì
đây là một cuộc chiến tranh giữa những người có chung một quốc gia Việt Nam, Do
đó, việc Chu Tất Tiến và những ai khác nói rằng từ năm 1954 đến 1975 ở Việt Nam
có hai quốc gia có biên giới là vĩ tuyến 17 để từ đó nói Việt Nam Dân chủ Cộng
đã “xâm lược” Việt Nam Cộng hòa rõ ràng là sai sự thật lịch sử.
Chu Tất Tiến viết: “Sau năm 1975, một số vị trí thức miền Nam cũ đã kêu gọi
quốc tế mở lại Hiệp Định Geneva. Những vị này không hiểu tình thế, vì như đã
nói trên, Việt Nam Cộng Hòa không ký tên vào hiệp định này! Đến gần đây, môt số
dư luận cho rằng cuộc chiến 1954-1975 là cuộc nội chiến và không bên nào xâm
lăng bên nào. Mong những vị đó nhìn vào thực tại của bán đảo Triều Tiên, hiện
nay vẫn là 2 quốc gia đối nghịch nhau, hoặc nhìn vào Đài Loan và Trung cộng, để
thấy cũng là hai quốc gia riêng biệt, dù cùng mầu da và tiếng nói, cho đến sang
thế kỷ kế tiếp, không biết đã sát nhập nhau chưa.”
– HIệp định Geneva 1954 được ký ngày 21/7/1954 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Pháp. Đến tháng 10/1955, Việt Nam Cộng hòa mới ra đời thì lấy đâu ra Việt
Nam Cộng hòa “không ký tên vào hiệp định này”!
– Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) và Hàn Quốc (Nam
Triều Tiên) chỉ trở thành hai quốc gia độc lập từ khi gia nhập Liên Hợp Quốc
vào tháng 9/1991. Do đó, chiến tranh Triều Tiên 1951-1953 giữa hai bên là chiến
tranh giữa hai miền của cùng một quốc gia Triều Tiên và vì vậy là nội chiến.
– Đài Loan không phải là thành viên Liên Hợp Quốc. Năm 1979, Mỹ chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và thừa nhận chính
phủ nước này là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc. Do đó, Đài Loan không phải
là một quốc gia độc lập.
Kết luận lại, sự thật lịch sử không thể là hệ quả của một sự áp đặt, nhất
là sự áp đặt đó đến từ những người thắng trận, mà phải được xác định thông qua
các cuộc tranh luận nghiêm túc và khoa học với các bằng chứng khả tín chứ không
bằng cảm tính. Cũng cần nói ngay rằng các cuộc tranh luận nghiêm túc loại trừ mọi
từ ngữ dung tục, tục tĩu, mang tính mạt sát, phỉ báng. Trên tinh thần này, tôi
rất mong nhận được phản hồi từ “Lính già Việt Nam Cộng hòa” Chu Tất Tiến và những
người khác, nhất là quý vị từng là quân, cán, chính Việt Nam Cộng hòa, hầu dựng
lại một cách chính xác nhất có thể các cuộc nội chiến ở Việt Nam trong thế kỷ
20 nói chung, nội chiến trong Chiến tranh Việt Nam nói riêng.
Tôi cũng mong muốn và hy vọng rằng thông qua các cuộc tranh luận như thế
này các bên trong cuộc chiến sẽ hiểu nhau hơn. Điều này là vô cùng cần thiết để
xóa mọi hận thù, hướng tới đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam thành một khối nhằm
xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ, Hùng mạnh và Thịnh vượng. Bởi chỉ có vậy Việt
Nam ta mới đủ sức đánh bại mọi cuộc xâm lăng đến từ Trung Quốc bành trướng cũng
như hóa giải mọi thách thức khác của thời đại!
Kỷ niệm 48 năm Ngày Thống nhất Đất nước (30/4/1975 – 30/4/2023)
Garden Grove, California, Hoa Kỳ, 29/4/2023
_______
Tác giả:Tiến sĩ Luật
Cù Huy Hà Vũ là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân
chính trị Việt Nam, từng là cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam trong 30 năm. Hiện
ông sống tại California, Hoa Kỳ.
Lưu ý của
Tiếng Dân: Trong bài tranh luận này, một số nơi tác giả Cù Huy Hà Vũ sử dụng
Wikipedia làm làm cơ sở để kiểm chứng thông tin. Tuy nhiên, Wikipedia không phải
là nguồn tin đáng tin cậy. Chính Wikipedia có bài “Wikipedia is not a reliable source” (Wikipedia không
phải là nguồn đáng tin cậy), vì nó có thể được bất kỳ ai đó chỉnh sửa vào bất cứ
lúc nào, nhất là những thông tin về lịch sử, đôi khi được những người của “bên
thắng cuộc” vào chỉnh sửa theo chủ ý của họ… Cho nên trang Wikipedia cảnh báo:
Không nên coi Wikipedia là nguồn tham khảo dùng trong bài viết.
No comments:
Post a Comment