Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023
https://www.diendantheky.net/2023/04/tran-trung-ao-gia-tri-cua-viet-nam-cong.html
Từ 1954 tại miền Bắc và sau 1975 trên phạm vi
cả nước, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản đã không ngừng vẽ trong nhận thức
của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chẳng khác gì một
con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. VNCH là hiện thân của
mọi thứ tội ác.
Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam
sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ thì
VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên
Talawas hơn mười năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại
miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa
đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Có.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không?
Có.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ
không? Có.
Nhưng các đặc điểm đó có đại diện cho Việt Nam
Cộng hoà (VNCH) không? Không.
Cho đến nay, một số người hoặc vì không có cơ
hội nghiên cứu sinh hoạt chính trị tại miền Nam, không phân biệt được sự khác
nhau giữa chính quyền và chế độ chính trị hoặc vì nghe riết những lời tuyên
truyền của đảng đến độ nhập tâm, đã đồng hoá chính quyền của các ông Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh với VNCH.
Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu
của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham
nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một
thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc
hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một
chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền
thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế
đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ
mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ
để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích
đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công
bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở
trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng
hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền
rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và
phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và
điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do,
Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi ông Lý Quý
Chung, trong Hồi ký không tên, xuất bản tại Sài Gòn trước ngày ông qua đời, dù
chê bai các chính quyền miền Nam tàn tệ, cũng không thể nói xấu bộ luật tối thượng
của chế độ cộng hoà như một diễn đàn để ông ta thực thi dân chủ: “Quốc hội lập
hiến kéo dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính
trị tại nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua
mạng lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với
các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hoà bình v.v…”
Về căn bản, không có nhiều khác biệt giữa Hiến
pháp VNCH 1967 và Hiến pháp Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần cuối vào năm 1987. Cả
hai hiến pháp đều dựa trên chế độ cộng hoà, phân quyền rõ rệt, thích hợp với đà
tiến hoá của văn minh nhân loại.
Dân chủ không phải là món quà của ông thần tài
đem đặt ngay trước cửa nhà mà là chiếc máy lọc từ nước đục sang nước trong, từ
phong kiến lạc hậu đến văn minh tiên tiến, và trong tiến trình đó hai quốc gia
VNCH và Nam Hàn, đều phải trải qua những kinh nghiệm máu xương trên con đường
dân chủ hoá đất nước. Giống như người dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt Nam
cũng vừa học dân chủ và vừa tập sống dân chủ với tất cả những khó khăn thử
thách.
Điểm khác nhau chính giữa Nam Hàn và Nam Việt
Nam là cơ hội.
Nam Hàn có cơ hội để biến những ước mơ của dân
tộc Triều Tiên gói ghém trong hiến pháp của họ để ngày nay là nước giàu mạnh nhất
nhì châu Á. Miền Nam Việt Nam thì không.
Chế độ cộng hoà tại miền Nam Việt Nam ra đời
và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc
dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm
vào thân thể của chế độ cộng hoà hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời
cho đến gục xuống trong tức tưởi.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ
cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.
VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị,
có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động
công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị
gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân
chính.
Nếu trước 1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai
bên của cuộc chiến và bất mãn trước xã hội nhiễu nhương, việc kết án chính quyền
là “trấn áp” có thể còn thông cảm được, thế nhưng sau 48 năm sống dưới chế độ độc
tài đảng trị vẫn có kẻ biện minh cho hành động đốt xe, bắt cóc, ném bom xăng
vào thương xá, ném lựu đạn vào nhà hàng ăn uống trước đây thì quả thật là vô cảm.
Đặc điểm thứ ba đảng tuyên truyền là miền Nam
chỉ biết “ôm chân Mỹ”.
Thật mệt mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự lệ
thuộc vào Mỹ của chính quyền miền Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng của
đảng CSVN và cũng chẳng sướng ích gì khi phải đọc lại bảng kê khai vũ khí, quân
trang, quân dụng mà hai đế quốc cộng sản đổ xuống Việt Nam.
Cho dù sự lệ thuộc vào cường quốc là điều
không tránh khỏi trong thế giới phân cực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua
thì chọn lựa cường quốc nào sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đất nước hơn?
Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu hết
các nước chọn lựa hay do điều kiện chính trị thế giới đẩy đưa, đã đứng về phía
tự do dân chủ như Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ v.v.
đều trở nên các quốc gia ổn định và phát triển nhờ chính sách đối ngoại thân Mỹ
một cách khôn khéo, trong lúc các nước theo chân Liên Xô, Trung Cộng như Bắc Việt,
Cu Ba, Bắc Hàn thì kết quả ra sao không cần phải phân tích.
Không ai từng chống Mỹ quyết liệt hơn cố tổng
thống Anwar Sadat nhưng để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông
đã bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do cho dù ông biết trước
sự chọn lựa đó có thể trả giá bằng nhiều rủi ro như ông tiên đoán trong diễn
văn đọc trước Quốc hội Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967.
Một số người có thể cho rằng Hiến pháp VNCH
cũng do người Mỹ nhúng tay vào. Dù điều đó đúng thì đã sao. Hiến pháp của quốc
gia Nhật Bản hiện đại cũng do bàn tay của Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng
những không bị oán ghét mà còn được nhân dân Nhật xem như là một trong những
người có công lớn trong việc xây dựng nước Nhật hiện đại.
Dân chủ là một kỳ quan được nhân loại bồi đắp
qua nhiều thời đại chứ không phải là tài sản riêng của quốc gia nào.
Học hỏi cái hay cái đẹp của các nước tiên tiến
để áp dụng vào cuộc cách mạng dân tộc và phát triển đất nước như cụ Phan Chu
Trinh từng thống thiết kêu gào gần trăm năm trước, luôn luôn là điều đáng khuyến
khích.
Phân tích để thấy, chế độ cộng hoà tuy không
còn hiện diện tại miền Nam nhưng các giá trị dân tộc, nhân bản và khai phóng thể
hiện trong Hiến pháp VNCH vẫn còn đó. Gia tài quý giá đó chẳng những không rã mục
theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt ra khỏi
biên giới Bắc Nam để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Nếu ai cho người viết phô trương quá đáng hãy
tạm gác qua bên các định kiến Bắc Nam, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn
giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt
Nam Cộng hoà trên trang đầu của Hiến pháp mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội
dung của Hiến pháp VNCH 1967 thôi, người đọc sẽ công nhận đó chính là mục tiêu
mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến.
Việc lặp lại những lời tuyên truyền cũ mèm của
đảng cho rằng chế độ cộng hoà tại miền Nam là “sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo
ra trong Chiến tranh Lạnh” chẳng khác gì chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con
trai.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là
một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh.
Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước
bị chia đôi mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực
dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu
tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí
làm nền tảng cho chế độ cộng hoà sau này.
Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là
vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng mồ hôi nước mắt của nhiều người. Những ai
biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, gạt bỏ lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sẽ thấy đó chính
là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn
cho các thế hệ mai sau.
Tiếc thay, viên ngọc và viên sỏi khác nhau khi
nằm trong tay người thợ bạc nhưng lại giống nhau khi nằm trong tay mấy cậu bé bắn
chim.
Do đó, phục hưng VNCH không có nghĩa là phục
hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do
đó không sống hay chết theo một chính quyền.
Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của
bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng
chung cho cả dân tộc.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn
cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật.
Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng
nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương
Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người
đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống
Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên.
Đối mặt với một kẻ thù Trung Cộng đông hơn nhiều
và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong
nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay.
Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên
cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm
lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay
cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt
đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn
trong hệ thống giáo dục một chiều Cộng sản, để có một nhận thức đúng về lịch sử
là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà
hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 48 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt
từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở
châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng
hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà
hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của
lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng, họ không có và
cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một
nhóm người cầm quyền được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước.
Sau mỗi cơn giận hờn, lãnh đạo CSVN lại lên đường
sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh
em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng Cộng sản theo thời gian có thể sẽ
nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của
ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.
Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc
hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong
bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một
chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Giống như hầu hết các nước cựu Cộng sản ở Đông
Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các
quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất
sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức
hệ Cộng sản.
Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để
phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà
lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng
đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống
nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng
hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới.
Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một
cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Trần Trung Đạo
Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 4 30, 2023
No comments:
Post a Comment