Hồ Sĩ
Quý
19/12/2017
Kinh
tế thị trường và làn sóng toàn cầu hóa, trong khi đem lại cho Việt Nam nhiều cơ
hội phát triển, để Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói, chậm phát triển thành một
nước có thu nhập trung bình, thì rất tiếc, lại cũng là điều kiện để nhiều thói
hư tật xấu của người Việt và một số yếu kém trong quản lý vĩ mô có cơ hội gây
tác hại cho xã hội.
Điều
đó gây dấu ấn trong văn hóa.
Hiện
thời văn hóa Việt Nam đang mang trong nó một số vấn đề thực sự cản trở sự phát
triển. Con người tha hóa, đạo đức xuống cấp, giáo dục yếu kém, y tế kém nhân
văn, chính sách văn hóa bất cập, lễ hội ít văn hóa… là những vấn đề nóng của bản
thân văn hóa Việt Nam.
Vấn
đề của tất cả những vấn đề ấy, theo chúng tôi, là sự sự lệch lạc về giá trị. Bảng
giá trị của người Việt hiện nay đã xuất hiện một số ngụy giá trị. Giả dối đã
tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt
Nam sẽ khó trở thành quốc gia thành công, nếu ngụy giá trị vẫn tiếp tục chiếm
chỗ của chân giá trị, nếu giả dối vẫn lấn át sự tử tế và chân thật.
*
I.Văn
hóa xuống cấp: những tác động từ phía xã hội
Hơn
30 năm qua, trong tương quan với sự phát triển, văn hóa Việt Nam được đánh giá
là có nhiều thay đổi theo chiều tiến bộ. Mà thay đổi lớn nhất là văn hóa ngày
nay được hiểu, được cư xử và được sử dụng khác hẳn so với trước kia. Không chỉ
là sản phẩm thụ động của đời sống vật chất, văn hóa đã thực sự trở thành nhân tố
bên trong, là cái quy định hành vi và hoạt động của con người, cả ở phạm vi cá
nhân và cả ở phạm vi các cộng đồng, các tổ chức xã hội. “Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[1].
Tuy
nhiên cùng với sự tiến bộ không thể phủ nhận ấy, văn hóa Việt Nam với tính cách
là sản phẩm thường ngày của đời sống xã hội, lại chưa đủ bản lĩnh để đề kháng
trước những tác động tiêu cực từ bên trong và bên ngoài. Sự tử tế và tính nhân
văn một khi không đủ mạnh để tự vệ và tấn công lại cái thiếu văn hóa và vô văn
hóa, thì chính nó lại bị tha hóa vì những tác động của cái xấu và cái ác.
Tác
động đến văn hóa hiện nay, là một loạt những vấn nạn lớn và nghiêm trọng về
kinh tế - chính trị - xã hội. Như nhiều tài liệu chính thức và không chính thức
đã phản ánh, chẳng hạn, nền kinh tế ngày càng lệ thuộc nặng nề vào nguồn vốn
FDI và vào kinh tế Trung Quốc; tỷ lệ nợ côngsắp chạm trần; sự chuyển đổi mô
hình phát triển vẫn rất lúng túng và chậm trễ; tình trạng tham nhũng và làm ngơ
trước tham nhũng vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại; hiểm họa của tình trạng môi trường
“gần chết” khó lường; khai thác tài nguyên vẫn khó kiểm soát; khủng hoảng giáo
dục chưa có lối thoát; hoạt động y tế đã xuống cấp ở chính quan hệ giữa thày
thuốc với con bệnh; tình trạng cán bộ công quyền lãnh cảm với dân và với các
bên đối tác chưa bớt; Biển Đông và chủ quyền lãnh thổ bị trực tiếp đe dọa, v.v…
II. Những
vấn đề nhìn từ phương diện văn hóa
Do
vậy, không có gì khó hiểu khi thấy văn hóa ngày nay cũng xuống cấp ở mức độ
đáng ngại. Đụng đến bất kỳ lĩnh vực nào người ta cũng thấy có vấn đề về mặt văn
hóa. Trong tương quan với sự phát triển, với tính cách là giá trị định hướng để
đề kháng trước các tiêu cực xã hội, chúng tôi thấy, văn hóa đang mang trong nó
những vấn đề bức xúc, có khả năng cản trở sự phát triển như sau:
1.
Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người
Việc
xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, lấy các giá trị chân - thiện - mỹ làm cốt
lõi, tuy được chú ý từ sớm nhưng chậm có những sản phẩm khoa học xứng tầm, đủ sức
định hướng đời sống nên càng ngày càng trở nên mờ nhạt, kể cả trong nhận thức
và trong chỉ đạo thực hiện.Việc thực hành lối sống có văn hóa chưa trở thành
nhu cầu tự giác, tự nhiên trong đời sống xã hội.
Tình
trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái về phẩm chất,
đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, yếu kém năng lực, tham quyền cố vị, cản
trở sự phát triển, gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân… đang gây mất lòng tin
nghiêm trọng vào Đảng vào chế độ. Tình trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham
nhũng, mặc dù thời gian gần đây bị lên án kịch liệt trong đời sống tinh thần xã
hội, nhưng dường như vẫn chưa giảm bớt được bao nhiêu.
Hiện
tượng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức tạp thể hiện sự rối loạn của
thang giá trị. Không chỉ có số lượng các vụ phạm tội về kinh tế hay hình sự gia
tăng mà điều đáng sợ là tính chất dã man của các tội phạm hình sự, đối tượng phạm
tội vừa trẻ vừa có kiến thức lại có xu hướng gia tăng. Trước kia, số vụ án hình
sự liên quan đến sinh viên, cán bộ có trình độ đại học không nhiều, không dã
man như mấy năm gần đây. Tội phạm kinh tế lớn hầu hết đều là cán bộ có chức,
có quyền, có trình độ. Tình hình này đã được các phương tiện thông tin đại chúng
phản ánh tương đối rõ. Không phải do dân trí thấp mà sinh ra tội phạm như quan
niệm trước đây. Một trong những nguyên do là thang giá trị xã hội đang bị rối
loạn.
Hiện
tượng vô cảm chưa có xu hướng giảm bớt. Tinh thần “thượng tôn pháp luật” ngày
càng kém; tâm lý lách luật kể cả ở các cơ quan có trách nhiệm trở thành quen
thuộc trong tư duy pháp luật.
Tất
cả những hiện tượng này gần như xuất hiện hàng ngày trên báo chí và tính cấp
thiết của vấn đề đã được phản ánh và đề cập chi tiết trong Nghị quyết Trung
ương 4 Khóa XII của Đảng (với 27 biểu hiện cụ thể về sự suy thoái…) do Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ[2].
2.Giáo
dục - đào tạo khủng hoảng ở chính chức năng của giáo dục
Giáo
dục - đào tạo từ nhiều năm gần đây đã được coi là xuống cấp, đôi khi được gọi
là “khủng hoảng”. Nhà nước và Bộ GD & ĐT đã thực hiện nhiều cải cách để cải
thiện tình hình. Đã có một số biến chuyển, thậm chí một số tổ chức quốc tế đã
có những đánh giá tích cực về giáo dục Việt Nam, nhưng giáo dục nói chung vẫn
chưa thể gọi là đã thoát ra được khỏi khủng hoảng.
Đầu
tư cho giáo dục tăng nhưng đầu tư công (ngoài Nhà nước) vẫn thấp. Đào tạo nhiều,
các giải pháp nâng chất lượng đã có, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo vẫn
chưa nâng lên như kỳ vọng. Thất nghiệp ở những người được đào tạo vẫn cao và vẫn
tăng. Trong khi đó tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn trầm trọng.
Tâm lý thực dụng trong giáo dục ở các đối tượng được thụ hưởng giáo dục đã hình
thành và dường như ngày càng tăng. Đội ngũ giáo viên và những người làm giáo dục
ngày càng gặp nhiều vấn đề gây lo lắng bất an, trong đó có những vấn đề chủ yếu
là do sự yếu kém của công tác quản lý gây ra.Kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ
thông trung học kết hợp xét tuyển đại học 2017 dù được đánh giá có nhiều ưu điểm,
song lại lộ ra tình trạng điểm chuẩn ngành sư phạm cực thấp, “báo động nguy hiểmvề
sự thất bại của cải cách giáo dục”. Bộ GD & ĐT kêu gọi ngành giáo dục “bình
tĩnh” và Bộ phải tính đến quy hoạch lại toàn bộ mạng lưới các trường sư phạm.
Tình
trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao đang gây lãng phí rất lớn
các nguồn lực khác cho phát triển, cản trở và làm giảm chất lượng tăng trưởng,
kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhưng giáo dục lại đang là lĩnh vực
rất lãng phí, theo nghĩa đào tạo nhiều nhưng chất lượng đang xuống dần. Đào tạo
nhiều, nhưng dùng được ít. Giáo dục và đào tạo của thế kỷ trước có thể hiệu quả
hơn so với hiện nay bởi chi phí ít hơn, tập trung và có chọn lọc hơn, và chất
lượng người học tốt hơn. Trong thực tế, không chỉ có tình trạng học sinh ngồi
nhầm lớp, mà có cả tình trạng giáo viên dậy nhầm chỗ, vào trường không nhằm thực
học mà chỉ để hợp lý hóa bằng cấp. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo kém
chất lượng và sính bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục và
đào tạo.
Điều
gây lo ngại là quản lý vĩ mô về giáo dục - đào tạo vẫn chưa có dấu hiệu tìm ra
được lối thoát khỏi khủng hoảng. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong giáo dục - đào
tạo nói lên sự xuống cấp về đạo lý trong quan hệ thày trò, sự thiếu vắng về lý
tưởng và hoài bão ở một bộ phận đáng kể học sinh, sinh viên. Giáo dục đào tạo
chưa thực hiện được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện để đột phá chất lượng về
nguồn nhân lực - một trong số điểm nghẽn của phát triển bền vững đất nước trong
giai đoạn tiếp theo.
Nhiều
ý kiến cho rằng giáo dục Việt Nam lâu nay quá chú trọng dạy chữ, dạy kiến thức
mà quên dạy làm người. Bộ trưởng giáo dục và nhiều chuyên gia giáo dục trong và
ngoài nước tại khắp các diễn đàn đều nhấn mạnh “triết lý giáo dục là đào tạo
con người”. Từ đó các nhà trường đã chữa cháy bằng việc thiết kế nhiều chương
trình về kỹ năng sống, về đạo đức công dân. Rốt cuộc, nhiều sinh viên ra trường
“chỉ chăm chăm làm người” mà không hề biết làm việc, kể cả những việc thuộc
chuyên ngành đào tạo.
Chúng
tôi nghĩ rằng, học để làm người dĩ nhiên là phương châm giáo dục đúng với mọi
lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Nhưng giáo dục một cá nhân, một cá thể thành một
con người là chức năng của toàn xã hội. Còn với ngành giáo dục, trước hết chức
năng của nó lại là dạy chữ, dạy tri thức, dạy làm việc. Chưa thực hiện được chức
năng này, đừng nói đến việc dạy làm người.
Vấn
đề của giáo dục Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, lại là quá thiếu hụt về tri
thức cần thiết để làm việc. Kiến thức sau đào tạo của sinh viên đại học nói
chung, hổng nghiêm trọng. Bất cứ cơ quan nào, bất cứ ngành nghề nào, sau khi nhận
sinh viên mới tốt nghiệp cũng phải đào tạo lại. Hiện tượng cử nhân mới tốt nghiệp
không soạn nổi một văn bản pháp quy, không biết cách trình bày một báo cáo nghề
nghiệp, không biết cách trích dẫn khoa học, không hiểu thế nào là vi phạm tác
quyền, hoặc thậm chí viết sai chính tả… là khá phổ biến.
Ngày
nay, tri thức nghề nghiệp, kiến thức (rất thiếu nhưng thường bị chê là) hàn
lâm, phương pháp nghiên cứu, kỹ năng thực hành… của trí thức trẻ nói chung rất
yếu. Đó rõ ràng không phải là kết quả của việc quá chú trọng dạy chữ, dạy kiến
thức mà quên dạy làm người. Ngược lại, dạy chữ, dạy kiến thức như thế thì không
có cách gì thành người được.
Đây
là điều mà ngành giáo dục theo chúng tôi chưa chú ý ở mức thỏa đáng.
3.
Y tế xuống cấp ở chính quan hệ giữa thày thuốc với con bệnh
Nền
y tế Việt Nam trong nhiều năm qua thực ra là có nhiều thành tựu, được cộng đồng
thế giới ghi nhận. Khoa học y tế ở Việt Nam cũng được coi là ở trình độ khá
cao; có ý kiến còn đánh giá là cao nhất trong số các khoa học chuyên ngành ở Việt
Nam, không thua kém khu vực. Tuy nhiên những vấn đề của ngành y tế và các vấn nạn
xã hội trong y tế lại ở mức đáng ngại: Hệ thống bệnh viện tư nhân khó phát triển
như dự kiến do cơ chế chứ không phải do năng lực. Các bệnh viện công lại không
phát huy được tiềm lựcvì có quá nhiều cái thiếu, mà thiếu nhất là một hệ
thống các quan hệ giữa người với người bình thường trong hoạt động y tế.
Hoạt động ytế xuống cấp, không chỉ ở những hiện tượng tiêu cực trong khám chữa
bệnh, trong dich vụ cung ứng thuốc men, trong thói vô cảm của người ngoài cuộc…
mà ở chính quan hệ giữa thày thuốc với con bệnh. “Lương y” rất hiếm hoi được
coi như “từ mẫu”. Rất ít người xem nghề y là cao quý vì sứ mệnh chữa bệnh cứu
người như trước đây. Quan hệ giữa thầy thuốc với con bệnh ngày nay khác rất nhiều
so với quan niệm có phần thiêng liêng cao quý trong quan niệm xưa và trong sách
giao khoa về y tế. Con bệnh quý trọng và cư xử đúng mực với thày thuốc ngày
càng ít đi.
Cách
đây vài năm, trong chuyên mục “dưới con mắt người nước ngoài”, một bài báo đã
nhận xét, “sống giữa một xã hội mà hai người thầy được trọng nhất (thầy giáo và
thầy thuốc) chỉ chấp hành nghĩa vụ tử tế khi có phong bì, con người không nhẫn
tâm và đốn mạt đi mới là lạ”[3].
Bảo
hiểm y tế có nhiều bất cập. Tình trạng giá cả thuốc chữa bệnh bất thường do quản
lý kém và do vụ lợi. Các vấn nạn y tế rất nghiêm trọng nhưng lại được Bộ Y tế
và xã hội coi là bình thường[4].
4.
Vấn đề của các chính sách về văn hóa
Việc
xây dựng chính sách về văn hóa, trên thực tế còn tình trạng thiếu đồng bộ, chậm
trễ. Mặc dù không thể phủ nhận, hơn 30 năm qua, các chính sách thuộc lĩnh vực
văn hóa đã được ban hành khá nhiều và bao quát rộng khắp các hoạt động, từ văn
hóa dân tộc đến văn hóa bên ngoài, từ việc luật hóa các hoạt động văn hóa tới
việc xây dựng các thiết chế văn hóa, từ quảng bá văn hóa đến đầu tư cho văn
hóa… Tuy vậy, việc ban hành chính sách lại lộ rõ sự ôm đồm của nhà nước trong
can thiệp vào hoạt động và đời sống văn hóa. Việc xây dựng các cơ sở văn hóa
không hợp với phong tục tập quán truyền thống của người dân bản địa đã gây ra
lãng phí lớn về ngân sách. Các cấp chính quyền khi quá quan tâm chỉ đạo trực tiếp
lễ hội, trong nhiều trường hợp lại trở thành sự can thiệp ít văn hóa. Việc thiếu
quan tâm đến đời sống văn hóa người dân, chạy theo các danh hiệu văn hóa, thả nổi
trùng tu di tích… đã gây nên tình trạng rối loạn trong hoạt động văn hóa. Một số
văn bản đôi khi được ban hành một cách chủ quan, nóng vội, mâu thuẫn, thể hiện
nhận thức hạn chế về văn hóa, nên không thực hiện được, gây mất lòng tin của
người dân, thậm chí gây phản kháng đối với một vài chính sách văn hóa. Tình trạng
hoài nghi trình độ văn hóa của các cơ quan quản lý văn hóa và trình độ của một
số cán bộ văn hóa có vẻ như ngày càng tăng. Tư tưởng về trao quyền chủ động cho
người dân trong hoạt động văn hóa, nhất là các loại văn hóa truyền thống, trên
thực tế rất ít được thực hiện.
Một
số lĩnh vực còn xảy ra chồng chéo giữa các Bộ, ngành trong quản lý (chẳng hạn vấn
đề bản quyền, xuất bản giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Thông tin và
truyền thông).
5.
Sự chênh lệch về đời sống văn hóa
Sự
chênh lệch giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng miền, đặc biệt là giữa đô
thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, hải đảo về thu nhập, về mức sống,
về giáo dục, chăm sóc y tế… đã được nói tới khá nhiều và biểu hiện của nó khá
rõ. Song sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa dường như còn rất ít được đặt ra.
Phần
lớn các hoạt động văn hóa lớn, các lễ hội tưởng niệm, lễ hội du lịch, các chương
trình nghệ thuật, các tuần văn hóa, các hội chợ văn hóa… đều được tổ chức ở các
thành phố lớn, các khu đô thị. Khu vực nông thôn hiện nay dù đã có các nhà văn
hóa nhưng mô hình chung còn đơn điệu, nội dung sinh hoạt còn chưa đa dạng và
thiếu chiều sâu, chủ yếu là dùng để họp hành và giải trí. Các sinh hoạt văn hóa
của đồng bào dân tộc và miền núi còn chưa được coi trọng, chưa phát huy được thế
mạnh bản sắc riêng về văn hóa.
Xã
hội càng phát triển, thế giới của người giàu và thế giới của người nghèo càng
cách biệt. Ngày nay, các thành phố lớn đều chia làm hai - đô thị của người giàu
và đô thị của người nghèo. Có nhiều khu đô thị, nhà hàng, rạp hát, trung tâm giải
trí và sinh hoạt văn hóa… mà người nghèo, kể cả người không giàu, không thể “có
quyền” đặt chân tới. Ẩm thực của người giàu là một thế giới về văn hóa; nghe
tên món ăn đã biết địa vị của người dùng. Tại một số địa phương có biển, bãi biển
cũng chỉ còn một phần rất nhỏ dành cho đông đảo người nghèo.
Sự
chênh lệch về đời sống văn hóa như vậy không bắt nguồn từ người dân, mà từ thể
chế, từ quyết sách vĩ mô của các cơ quan quản lý.
6. Vấn
đề về tính văn hóa của các lễ hội
Sự
gắn kết giữa tín ngưỡng, lễ hội và du lịchngày càng trở nên chặt chẽ. Bên cạnh sự
phục hồi của tín ngưỡng, lễ hội dân gian truyền thống, thì xu hướng đua nhau tổ
chức những lễ hội mới cũng ngày càng phổ biến hơn. Những lễ hội mới vừa có nguồn
gốc tiếp nhận từ bên ngoài vừa có những lễ hội nội sinh. Loại hình
du lịch lễ hội, du lịch tín ngưỡng, du lịch hành hương… phát triển không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng sự kết nối ra cả thế giới. Việt Nam vốn
đã có nhiều lễ hội, nhưng chưa bao giờ lễ hội lại nhiều đến như hiện nay.
Vấn
đề là ở chỗ, những tiêu cực nảy sinh trong lễ hội lại khá phổ biến. Cùng với
tình trạng quản lý kém, chính quyền can thiệp nhiều khi không tuân theo quy luật
của văn hóa, nên đã làm xấu hình ảnh của con người và văn hóa Việt Nam, gây bức
xúc cho xã hội. Đặc biệt là nạn nhét tiền lẻ ở khắp nơi trên ban thờ, trên tượng,
trên kẽ đá tại những đền chùa. Hàng quán dịch vụ kém văn hóa la liệt ở khắp mọi
cơ sở tín ngưỡng, làm cho văn hóa tâm linh mất đi vẻ tôn nghiêm cần có. Những
tiêu cực của lễ hội đã khiến cho cơ quan Chính phủ cũng phải quan ngại [5].
III. Vấn
đề của những vấn đề - sự lệch lạc về giá trị: giả dối được coi là bình thường
Ẩn
giấu bên trong và xuyên tất cả những vấn đề nói trên là sự lệch lạc về giá trị.
Có thể nói bản chất của những hiện tượng có vấn đề về mặt văn hóa đó là sự lệch
lạc, méo mó về giá trị.
Hiện
tượng lệch lạc về giá trị lâu nay đã được báo chí nói nhiều và thực sự ngày
càng phổ biến trong đời sống văn hóa. Nhưng điều đáng nói là, gần đây sự lệch lạc
này dường như dần đã thành quen, trở thành bình thường, ít gây khó chịu như những
năm trước.
Chẳng
hạn, những hành vi phản cảm, thời thượng, lố bịch của giới Showbiz được báo mạng
và thậm chí cả TV quảng bá hàng ngày, lớp trẻ mới lớn tưởng đó là chân giá trị[6].
Khá nhiều danh hiệu hão được tiếp tay bởi các cơ quan có trách nhiệm, kể cả
nhân danh UNESCO. Tạp chí khoa học gần đây không hẳn là nơi công bố những phát
kiến mới của khoa học. Bằng giả, danh hiệu giả, kiến thức giả… gần như không
còn là điều xấu hổ. Tệ nạn “mua điểm” đã xuất hiện cả ở những trường Phổ thông
danh tiếng Hà Nội. Hiện tượng “chạy” (chạy chức, chạy quyền, chạy tiêu chuẩn,
chạy tuổi…) ai cũng thấy nhưng coi như không biết. Ở nhiều công trình, dự án… mục
đích ghi trong văn bản chỉ là phương tiện, là công cụ cho tham nhũng. Mọi đề án
quốc kế dân sinh đều có nguy cơ đổ vỡ nếu ở đó tham nhũng hay mục đích vụ lợi
không thực hiện được. V.v… Nghĩa là gần như ở đâu cũng có những giá trị mà kẻ vụ
lợi có thể có được một cách bất chính. Rất tiếc là xã hội lại thừa nhận bằng
cách làm ngơ coi như không thấy. Quá nhiều giá trị ngày nay đã méo mó tới mức
trở thành “ngụy giá trị”.
Sinh
thời, GS. Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”,
“sự hẳn hoi” thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội
còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế mới xuất
hiện được”[7].
GS. Nguyễn Văn Trọng cũng thừa nhận: “Một cộng đồng mà đam mê cai trị người
khác mạnh hơn nhiều so với ham muốn có độc lập cá nhân để làm những công việc
sáng tạo, thì đó chính là một cộng đồng săn tìm địa vị theo cách gọi của J.S.
Mill”[8].
Giả
dối khá phổ biến, làm nản lòng sự trung thực, tử tế. Có lẽ chỉ trừ môi trường
gia đình còn ở đâu người ta cũng bắt gặp cái giả dối (trong môi trường gia
đình, giả dối không phải là không có, nhưng không gia đình nào chấp nhận điều
giả dối, trừ phi giấu diếm được). Còn trong xã hội, sự bao che cho cái xấu, cái
bất minh khá trắng trợn. Khác với vài chục năm trước đây, ngày nay, con cái dù
được tuyển dụng vào môi trường nào, kể cả quân đội, công an hay cơ quan nhà nước…
cũng không đủ làm cho các bậc cha mẹ cảm thấy thật yên tâm, nếu không có “van
an toàn” riêng, vì khó có gì đảm bảo an toàn.
Từ
sau Nghị quyết TW 4, sự trắng trợn kiểu như “đúng quy trình” ít nhiều có bớt
đi, nhưng vẫn còn khá nghiêm trọng. Sự tha hóa, lối sống xa hoa, phù phiếm…
có xu hướng ngày càng phổ biến.
Trên
thực tế, hai giá trị giữ vị trí thống trị ngày nay rất tiếc lại là “tiền” và
“làm quan”. Khoe tiền, khoe của, khoe giàu sang… rất công nhiên. Mọi giá trị
khác hóa ra đều nhỏ bé, không mấy ý nghĩa nếu không được “đảm bảo” bằng tiền. Mọi
thành đạt cũng chỉ tương đối trong so sánh với “làm quan”. Người không may mắn
trên đường “hoạn lộ” thường ít được cảm thông, mà buộc phải chịu sự dè bỉu trước
hết là của người thân, sau đó mới là của đồng nghiệp và xã hội.
IV. Kết
luận
Văn
hóa và phát triển là mối quan hệ quy định lẫn nhau, đôi khi là nhân quả, nhưng
cũng đôi khi không tất nhiên.
Khi
đóng vai trò là nhân tố bên trong, là cái nằm ở tầng sâu của đời sống xã hội,
văn hóa Việt Nam quy định sự phát triển của xã hội ngày nay bằng những giá trị
định hướng được xác lập từ lịch sử nhiều nghìn năm của văn hóa dân tộc. Sự phát
triển của xã hội Việt Nam hiện đại dù biến động theo phương thức nào vẫn chắc
chắn sẽ đi theo quỹ đạo của một xã hội tiến bộ, công bằng, với những con người
nhân văn, thông minh, có đủ sức mạnh và trí tuệ xây dựng đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
Nhưng
trong khuôn khổ là nhân tố chịu sự tác động của đời sống xã hội hiện thời, thì
văn hóa Việt Nam hiện nay lại mang trong nó một số hạn chế, khiếm khuyết, cần
phải được chủ động nhận diện và kiên quyết thay đổi để phát triển.
Qua
mấy chục năm tiếp cận với kinh tế thị trường và làn sóng toàn cầu hóa, nhiều
thói hư tật xấu của người Việt và một số yếu kém trong quản lý vĩ mô, chẳng những
vẫn chưa được khắc phục mà còn cộm lên thành những vấn đề cản trở sự phát triển.
Con người tha hóa, đạo đức xuống cấp, giáo dục yếu kém, y tế kém nhân văn,
chính sách văn hóa bất cập, lễ hội ít văn hóa… là những vấn đề nóng của bản
thân văn hóa Việt Nam.
Nhưng
ẩn giấu bên trong và xuyên qua tất cả những vấn đề ấy là sự sự lệch lạc về giá
trị. Theo chúng tôi, vấn đề lớn nhất của văn hóa Việt Nam hiện thời là sự lệch
lạc về giá trị. Bảng giá trị của người Việt truyền thống và hiện đại hiện nay
đã vô tình bị xếp sai một số vị trí thành ngụy giá trị. Thói vụ lợi và thực dụng
qua sự kích thích của mặt trái kinh tế thị trường đã làm cho không ít người tưởng
rằng tiền bạc và hoạn lộ là giá trị đỉnh cao của đời sống. Giả dối được tiếp
tay bởi những kẽ hở của cơ chế đã biến thành lối sống, thành phương thức sống của
không ít kẻ vụ lợi.
Sự
phát triển đòi hỏi mỗi các nhân và các tổ chức xã hội phải thật sự nghiêm khắc
với những thói hư tật xấu này để bảng giá trị trở lại với chân giá trị. Xã hội
muốn phát triển, ngụy giá trị không thể chiếm chỗ của chân giá trị, giả dối
không thể lấn át sự tử tế và chân thật.
.............................
[1].Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. CTQG. Hà Nội, tr. 126.
[2].Xem: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 - khoá
XII. https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/14839/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-4-khoa-xii
[3]. Rùng mình khi nghĩ đến bệnh viện. http://tuoitre.vn/rung-minh-khi-nghi-den-benh-vien-360266.htm
[4]. Giá bán lẻ sữa ở Việt Nam ở mức cao nhất thế giới, gấp
đôi Malaysia và gấp 1,5 lần Thái Lan. Giá thuốc Tây tại Việt Nam thuộc hàng đắt
nhất thế giới: theo khảo sát của WHO với 7 nhóm thuốc thông dụng, giá thuốc tại
Việt Nam cao từ 5 đến 40 lần so với giá trung bình thế giới. Hiện tượng nạo phá
thai cao nhất thế giới. Tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực
Đông Nam Á (khoảng 10 trẻ em độ tuổi 7-15 tử vong vì chết đuối mỗi ngày). Tai nạn
giao thông với khoảng 1000 người chết mỗi năm. Việt Nam vẫn nằm trong số 36 quốc
gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi trên phạm vi toàn cầu (Đàn ông Việt
Nam có chiều cao trung bình 1m62, thấp nhất ASEAN, kém cả Campuchia, và thấp
hơn nhiều so với Đông Bắc Á).
[5]Trước những diễn biến phức tạp của lễ hội, ngày 9/2/2011,
Chính phủ đã có Công điện gửi các Bộ và các đơn vị liên quan, yêu cầu chấn chỉnh
những biểu hiện tiêu cực, phản cảm tại các lễ hội trên cả nước, nhất là dịp đầu
năm.
[6]Thái Sơn(2017). Showbiz Việt và những khủng hoảng
văn hóa. http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Show-biz-Viet-va-nhung-khung-hoang-van-hoa-463845
/
[7].Hoàng Ngọc Hiến (2010). Sự hẳn hoi của một chính
khách lớn
[8]. Nguyễn Văn Trọng (2010). Tai họa từ lòng ghen tỵ.Thời
báo Kinh Tế Sài Gòn.
No comments:
Post a Comment