Nguyễn Quang Dy
23/3/2017
Hôm
qua vào mạng Viet-studies đọc thấy bài này hay quá (The
Last Hollow Laugh, AEON, March 21, 2017). Tuy không biết tác giả
(Paul Sagar), nhưng tôi đã đọc một mạch. Khi phân tích cuốn sách gây tranh cãi The
End of History and the Last Man (Francis Fukuyama, 1992), Paul Sagar
không chỉ bênh vực Fukuyama mà còn lý giải rất hay về Trumpism. Tôi đã định dịch,
nhưng việc dịch mất thời gian, và bản dịch thường không hay bằng nguyên bản tiếng
Anh, nên tôi xin tóm tắt để giới thiệu với những bạn đọc nào quan tâm đến bài
viết này của Paul Sagar cũng như cuốn sách đó của Fukuyama.
Cũng
như nhiều người khác, tôi học hỏi được nhiều khi đọc cuốn sách gây tranh cãi đó
của Fukuyama, nhưng thú thực lúc trước tôi chưa hiểu lắm về lập luận của ông ấy,
và cũng hơi hoang mang khi thấy nhiều người phản bác. Vì vậy, khi đọc bài phân
tích này của Paul Sagar, tôi thấy sáng tỏ hơn nhiều và thán phục tầm nhìn của
Fukuyama. Đúng là lúc đó (năm 1992) Fukuyama chỉ nói đến nước Nhật (đang nổi
lên thách thức Mỹ). Cách đây 25 năm, Trung Quốc chưa trỗi dậy, và nước Mỹ chưa
có Trumpism.
Nhưng
tại sao từ năm 1992 Fukuyama đã dự đoán được những gì xảy ra ở Mỹ năm 2016. Có
rất ít học giả có thể đoán trước điều “tất yếu” đó. Noam Chomsky là một ví dụ
khác, khi ông ấy dự đoán từ năm 2010 về những gì xảy ra năm 2016.
Lúc đó người ta chẳng thèm nghe và thậm chí còn hiểu lầm. Vì vậy, những người
có tầm nhìn xa thường cô đơn. Cách đây 100 năm khi Albert Einstein nói về “sóng
hấp dẫn” (hay “nếp nhăn”) của vũ trụ thì chắc nhiều người nghĩ rằng ông ấy
khùng. Còn Einstein thì cho rằng “chỉ có hai điều vô hạn là vũ trụ và sự ngu
xuẩn của con người” (và ông ấy không dám chắc về điều thứ nhất).
Làm
thế nào mà Fukuyama lúc đó lại nghĩ ra từ megalothymia để
lý giải sự trỗi dậy của những người như Donald Trump. Đó là một thuật ngữ mà
Fukuyama vận dụng khái niệm thần học của Plato để mô tả phần hồn của những kẻ độc
đoán và tham vọng. Tuy cách đây 25 năm, cuốn sách gây tranh cãi của Fukuyama bị
nhiều người chỉ trích, hiểu lầm và đối xử bất công, nhưng đến nay thì lập luận
của ông ấy bỗng trở thành “tiên tri”.
Lịch
sử tư duy của con người nói chung và người Mỹ nói riêng thường rất gập ghềnh.
Sau vụ khủng bố “9/11” và nhất là sau thất bại của cuộc chiến Iraq, người Mỹ
càng chỉ trích tầm nhìn “sai trái” về “sự thắng thế” của trật tự thế giới dựa
trên dân chủ tự do. Vì người ta ngộ nhận gán cho Fukuyama tầm nhìn đó, nên ông ấy
trở thành nạn nhân của những lời chỉ trích bất công, như một sự hiểu lầm đáng
tiếc. Theo Paul Sagar, cuốn sách của Fukuyama không đề xướng tầm nhìn đó, mà
ông ấy chỉ muốn tìm hiểu để làm rõ lịch sử.
Vì
Fukuyama không phải là một học giả kiểu truyền thống, nên ông ấy hiểu Lịch Sử
(viết hoa) như sự quan tâm sâu sắc đến cấu trúc sự tồn tại của xã hội loài người.
Fukuyama cho rằng Lịch Sử đầy phức tạp bởi các lực lượng đối kháng triệt tiêu
nhau để thúc đẩy xã hội phát triển. Ông lấy cảm hứng từ tác phẩm của nhà triết
học Đức Georg Hegel, qua diễn giải của nhà triết học Nga Alexandre Kojève.
Cả hai cùng đề xuất “Lịch Sử là quá trình qua đó các mâu thuẫn trong trật tự
xã hội cũ triệt tiêu nhau bằng cách vượt qua xung đột để tiến tới một trật tự mới
nơi các mâu thuẫn cũ biến mất vì sự đối kháng đã được hóa giải”.
Ví
dụ rõ nhất về quan điểm “biện chứng” đó là Karl Marx (cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi Hegel) cho rằng giai cấp tư sản và vô sản cuối cùng sẽ vượt qua
đối kháng bởi môt giai đoạn cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, để tiến lên chủ
nghĩa cộng sản. Fukuyama cho rằng Lịch Sử (viết hoa) thực ra là quá trình phát
triển của xã hội loài người một cách hợp lý hóa (giải quyết các mâu thuẫn một
cách biện chứng), để tiến lên từng nấc một: từ thời Mông muội (Dark Ages), đến
thời Phục hưng (Renaissance), qua thời Khai sáng (Enlightenment), với những
phát kiến mở đường cho chủ nghĩa tư bản dựa trên dân chủ tự do.
Fukuyama
đã vứt bỏ quan điểm siêu hình của Hegel cũng như quan điểm “duy vật biện chứng”
của Marx. Thay vào đó, Fukuyama đề xuất phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại
kết hợp với tiến bộ công nghệ, song song với nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, nhằm lý giải tại sao văn minh loài người đã tiến bộ được như vậy. Cái chốt
là chủ nghĩa tư bản dựa trên dân chủ tự do là giai đoạn cuối của tiến trình Lịch
Sử. Măc dù nó không hoàn thiện, nhưng đó là mô hình tốt nhất mà chúng ta có. Vì
vậy, Fukuyama mới có câu nói nổi tiếng “Lịch Sử đã chấm dứt”, và chúng
ta đang sống trong giai đoạn “Hậu Lịch Sử”.
Trong
phân tích của mình, Fukuyama luôn nhấn mạnh đến yếu tố thymos (tiếng
Hy Lap có nghĩa là “tinh thần”). Đó là sự công nhận tâm lý con người, mà Thomas
Hobbes gọi là “tự hào” (pride) và Jean-Jacques Rousseau gọi là “tự trọng”
(amour proper). Người ta luôn có nhu cầu được yêu thích và tôn trọng bởi người
khác. Theo Fukuyama, một số người luôn ganh đua và tham vọng muốn được công nhận
là đứng đầu. Có người muốn được tôn trọng, và nếu cảm thấy không được như ý,
thì họ sẽ phá phách, gây rối.
Có
đủ lý do để chúng ta cho rằng từ đỉnh cao đó người ta có thể trượt xuống dốc
(quay trở về Lịch sử) nhưng ở mức độ tồi tệ hơn. Fukuyama cho rằng con người
không chỉ có thymos mà còn có megalothymia. Đó
là ham muốn không chỉ được tôn trọng và công nhận đúng mức, mà còn muốn thống
trị kẻ khác một cách quá mức. Megalothymia không hẳn là xấu,
nhưng nếu không nhắm tới mục đích đúng thì nó có thể trở thành tàn bạo, muốn thống
trị và áp bức kẻ khác. Lịch Sử luôn ẩn tàng nguy cơ tại điểm kết thúc.
Trong
phần thứ hai của tên cuốn sách mà Fukuyama gọi là The Last Man, ông
ấy đã tham chiếu và vận dụng quan điểm của nhà triết học Đức Friedrich
Nietzsche, khi lập luận rằng xã hội hiện đại tuy nhấn mạnh sự thật và minh bạch,
nhưng đã “giết chết Thượng đế” (killed God) mà không có gì khác để thay thế. Hầu
hết con người hiện đại đều là những kẻ tiểu nhân, trì trệ, và nhàm chán, bị ám ảnh
bởi thế giới vật chất tầm thường. Nói cách khác, nếu thiếu megalothymia thì
không còn gì lớn lao, mà chỉ còn sự tầm thường.
Nếu
“người cuối cùng” (the last man or woman) không hài lòng với cuộc sống vật chất
vì không đáp ứng megalothymia, họ sẽ buồn chán bởi tình trạng
“nô lệ không có chủ” mà Fukuyama đề cập đến như cuộc sống dựa trên “tiêu
thụ hợp lý”. Sự lan tỏa của khái niệm đại đồng cùng với chính trị dân chủ
thế tục, dẫn đến sự phản ứng quyết liệt, đặc biệt bởi những người đã bị mất vị
thế truyền thống tại nấc thang xã hội của họ, và họ cảm thấy bị lừa dối bởi
không được công nhận như họ tin là mình xứng đáng (nghe quen quen?).
Fukuyama
dự đoán rằng sự phản ứng đó cuối cùng phải có lối thoát chính trị và có thể trở
thành bùng nổ. Nhưng cánh Tả và CNCS đã phá sản và thất bại. Những con người “hậu
Lịch Sử” bị thúc đẩy bởi megalothymia sẽ không còn
mơ hồ bởi thế giới đại đồng, hay thực tế độc tài trần trụi. Đe dọa lớn hơn đối với sự ổn định
của các xã hội dân chủ tự do là sự trỗi dậy của các phần tử cực Hữu mị dân, sẵn
sàng đáp ứng những lợi ích vị kỷ và sự phản ứng của dân chúng, lợi dụng những
ham muốn của con người để giành quyền cai trị.
Trong
tầm nhìn của mình về “Lịch Sử chấm dứt”, Fukuyama không dự đoán những biến
động cụ thể của năm 2016 diễn ra thế nào. Ông ấy nói rất ít về Trung Quốc trong
mối tương quan với Mỹ, trong khi đề cập nhiều đến Nhật. Tuy nhiên, Fukuyama biết
rõ hơn nhiều người khác là năm 2016 sẽ đầy biến động, và những sự kiện đầy kịch
tính năm 2016 sẽ dẫn chúng ta đi đâu. Tuy những kiến giải gần đây của Fukuyama
không đề cập lại những chủ đề trong cuốn sách, nhưng chính Fukuyama, chứ không
phải những người chỉ trích ông, mới có quyền cười nhạt. Khi Fukuyama đề cập đến sự nông cạn và trống rỗng
về văn hóa của những người nổi tiếng, chắc trong đầu ông ấy đã có một ví dụ cụ
thể, như biểu tượng megalothymia. Còn ai khác nếu đó
không phải là Donald Trump. Điểm cuối cùng là, tuy Fukuyama không dự
đoán cụ thể Trump chính là “người cuối cùng” (the last man), sẽ làm đảo lộn trật
tự của thời kỳ “Hậu Lịch Sử”, nhưng ông ấy đã nói đúng hơn nhiều người khác.
NQD.
22/3/2017
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 22-3-17
No comments:
Post a Comment