23-3-2017
Sáng
ngày 23-3, Giáo sư Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng ĐH Harvard, Giáo sư sử học
danh hiệu Lincoln đã thuyết trình trước giảng viên, sinh viên trường ĐH Khoa học
Xã hội & Nhân văn (ĐHQG-HCM) với chủ đề "Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức
và bài học lịch sử". Cổng thông tin điện tử xin giới thiệu toàn văn nội
dung bài thuyết trình:
Nguyên
văn tiếng Anh:
Harvard
University - March 23, 2017
Tường
thuật chuyến đi:
Harvard
Gazette - March
23, 2017
Giáo
sư Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng ĐH Harvard. Ảnh: Việt Thành
Trước
khi trở thành Hiệu trưởng Đại học Harvard, tôi là một học giả và giảng viên lịch
sử trong suốt hơn ba mươi năm. Vì vậy, tôi đặc biệt vui mừng được có mặt tại
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một trung tâm nghiên cứu lịch sử
hàng đầu của Việt Nam.
Việc
có mặt tại đây, ở đất nước các bạn, đối với tôi mang rất nhiều ý nghĩa, bởi vì
nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của hai quốc gia đã quyện chặt vào nhau và ảnh
hưởng tới tất cả chúng ta. Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước theo cách nói của
các bạn –và “Chiến tranh Việt Nam” theo cách gọi của chúng tôi – đã mãi mãi định
hình thế hệ chúng tôi, những người trưởng thành trong thập niên 1960-1970. Dù rằng
suốt những năm tháng đó, tôi chưa từng vượt 8000 dặm để đặt chân đến nơi này,
nhưng những địa danh như Khe Sanh, Pleiku, Ấp Bắc, Điện Biên Phủ, Vịnh Bắc Bộ,
Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn không ngừng vang vọng trong tâm trí tôi
trong suốt mấy thập kỷ qua. Tôi đã hằng mong ít nhất một vài địa danh trong số
này không chỉ dừng ở con chữ.
Các
bạn có một khẩu hiệu nhắn gửi khách du lịch rằng “Việt Nam là một đất nước chứ
không phải một cuộc chiến tranh.” Giống như rất nhiều người Mỹ khác từng đến
đây, tôi vẫn hằng mong đến một ngày nào đó, Việt Nam trong tâm trí tôi không phải
tên gọi của một cuộc xung đột bất ngờ ập đến với thế hệ chúng tôi, mà là một quốc
gia và xã hội với tất cả sự phức hợp, vẻ đẹp, lịch sử, sự sống động và triển vọng
của nó.
Và
không hiểu sao, dường như đối với tôi, tìm hiểu đất nước của các bạn trở thành
điều cần thiết để hiểu chính đất nước của tôi.Thanh niên trai tráng trong thế hệ
chúng tôi đã phải đối diện với giấy gọi nghĩa vụ quân sự, khiến nhiều người phải
đấu tranh nội tâm xem họ có nên tuân thủ pháp luật, phụng sự cuộc chiến mà họ
cho rằng vừa không khôn ngoan vừa bất chính. Đối với lớp phụ nữ trẻ như tôi thời
bấy giờ, tình thế tiến thoái lưỡng nan đỡ mang tính trực diện cá nhân hơn,
nhưng nó thôi thúc chúng tôi đặt câu hỏi nghi ngờ về quốc gia của mình, về nên
dân chủ và về tính nhân văn của chúng tôi. Michael Herr, một nhà báo Mỹ chuyên
viết về cuộc chiến này đã từng viết rằng Việt Nam là những gì tất cả chúng tôi
đã có thay vì một tuổi thơ hạnh phúc.
Ở
Harvard, hằng năm cứ đến tháng 5 là hàng trăm cựu sinh viên sẽ về lại trường để
kỷ niệm 50 năm ngày ra trường của họ. Đây là một nghi lễ quan trọng,và vào mùa
xuân này, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra trong khuôn khổ các buổi lễ. Các
thành viên của khóa 1967 – cả nam và nữ – sẽ dành một phần thời gian để cùng
nhau tưởng nhớ lại cách thức Cuộc chiến đã định hình những tháng năm đại học của
họ, và thảo luận xem “Chiến tranh Việt Nam” đã ảnh hưởng đến họ hơn nửa thế kỷ
ra sao.Một thành viên khóa nàytừng là lính thủy đánh bộ đã viết “rất nhiều người
thế hệ tôi… đã phải có những lựa chọn về Việt Nam khiến chúng tôi bị ám ảnh suốt
quãng đời còn lại của mình, cả lúc tỉnh cũng như khi mơ”.
Cuộc
chiến ở ngoài nước Mỹ, 3 triệu tấn bom và 11 triệu gallon thuốc diệt cỏ đã
không rơi trên đất nước chúng tôi; 58.220 lính Mỹ hy sinh, so với con số ước
tính khoảng hơn 3 triệu quân và dân Việt Nam thiệt mạng trong“Chiến tranh Đông
Dương lần thứ hai”. Nhưng cả hai xã hội của chúng ta đều sống với những bóng
ma, với ký ức và với những di sản. Với hậu quả chiến tranh.
Tôi
không phải là thành viên của khóa sinh viên Harvard sẽ hội ngộ vào mùa xuân này,
nhưng tôi cùng trang lứa với họ, và cũng như họ, tôi đã bị định hình bởi chiến
tranh Việt Nam theo những cách mà đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn thấu
hiểu. Nhưng một ảnh hưởng mà tôi có thể xác định rõ ràng là về công việc của
tôi với tư cách một sử gia. Việc trưởng thành trong thập niên 1960 đã tạo ra
trong tôi sự cuốn hút dai dẳng với chiến tranh, với cách mà những đòi hỏi khủng
khiếp của nó có thể nhào nặn các cá nhân và xã hội, với sự khúc xạ không tránh
khỏi của quan điểm và lý tưởng chiến tranh, với những áp lực tột cùng của nó.
Chiến tranh có thể ví như “lửa thử vàng”thuần chất, đối với mỗi cá nhân cũng
như cho toàn xã hội.
Trong
lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ, cuộc Nội chiến kéo dài từ năm 1861 đến năm 1865 giữ
vị trí cốt lõi trong căn tính quốc gia. Sự tàn bạo và ý nghĩa sống còn của cuộc
Nội chiến khiến nó, cho đến tận ngày hôm nay, vẫn choán một mảng lớn trong tâm
thức dân tộc, và nó cũng là trọng tâm nghiên cứu và viết sử của tôi.
Rất
nhiều tranh luận quan trọng về cuộc chiến – về công lý, bình đẳng, dân quyền,
dân chủ và trung tâm quyền lực quốc gia – tiếp tục định hình các chính sách của
nước Mỹ cả một thế kỷ rưỡi sau khi chiến tranh kết thúc. Và chúng tôi vẫn tiếp
tục tự vấn một cách nhọc nhằn về ý nghĩa của cuộc chiến đối với tình trạng phân
biệt chủng tộc vẫn tồn tại cho đến tận bây giờ. Người Mỹ vẫn vật lộn với việc sử
dụng lá cờ liên minh miền Nam (Confederate flag), biểu tượng của phần lãnh thổ
sẽ là quốc gia da trắng phương Nam, đấu tranh để giữ chế độ nô lệ da đen, một
biểu tượng ngày nay được đa số người Mỹ nhìn nhận như là một sự sỉ nhục và rào
cản của bình đẳng sắc tộc.
Giáo
sư Drew Gilpin Faust thuyết trình trước giảng viên, sinh viên Trường ĐH
KHXH&NV. Ảnh: Việt Thành
Thông
thường, bên thắng cuộc viết nên lịch sử cuộc chiến. Nhưng vào cuối thế kỷ 19,
Liên bang miền Bắc – người chiến thắng – đã chọn “phiên bản chiến tranh” như là
sự mất mát chung của cả hai phía, sự đau đớn mà cả người Mỹ da trắng phương Bắc
và phương Nam cùng chia sẻ, qua đó cố gắng hòa giải sự chia rẽ dân tộc. Cái giá
cho sự hòa hợp này là nước Mỹ đã từ bỏ cam kết của Liên bang miền Bắc về giải
phóng nô lệ, về “một nền tự do mới”, bỏ rơi 4 triệu nô lệ cũ cùng với con cháu
của họ, đẩy họ vào cảnh bị kỳ thị và phân biệt đối xử trong hơn một thế kỷ tiếp
theo. Các nền tảng pháp lý của chế độ nô lệ đã chấm dứt, nhưng tầm nhìn về tự
do thực sự cho người Mỹ gốc Phi đã bị gạt sang một bên để cho Bắc và Nam hòa giải
trong một tâm trạng chungvề mất mát và tang tóc.
Quả
thực, cuộc Nội chiến đòi hỏi sự hy sinh to lớn. Khoảng 750.000 người đã chết –
nhiều hơn thương vong của tất cả các cuộc chiến tranh từ trước gộp lại cho tới
Chiến tranh Việt Nam. Mất mát này chiếm tới 2,5% dân số. Nếu tính cho dân số
Hoa Kỳ ngày nay, tỷ lệ tử vong tương tự sẽ ứng với gần 7 triệu nhân mạng.
Người
Mỹ đã không được chuẩn bị cho cuộc Nội chiến này. Cả hai bên đều nghĩ rằng, nếu
có phải đổ máu đi chăng nữa thì cũng chỉ cần một trận đánh để kết thúc chiến
tranh. Trừ một vài ngoại lệ, đây là cuộc chiến có tổ chức chứ không phải chiến
tranh du kích hay chiến tranh bất thường. Nhưng quy mô của cuộc xung đột — gần
3 triệu đàn ông tham gia — vượt xa những gì quân đội từng chứng kiến, thách thức
trí tưởng tượng cũng như năng lực hậu cần của cả hai phía.
Quy
mô vượt quá kỳ vọng của cuộc chiến đem đến nhiều hệ lụy, nhưng một điều đặc biệt
thu hút sự chú ý của tôi là ý nghĩa và tác động của những cái chết hàng loạt.
Chết chóc, mối đe dọa đi cùng với nó, cận kề nó và hiện thực của nó trở thành
những kinh nghiệm chiến tranh được chia sẻ rộng rãi nhất.Làm thế nào để quốc
gia đương đầu với những tổn thất này?Tôi đã cố gắng đặt câu hỏi đó ở mọi cấp độ,
từ hậu cần – họ đã làm gì với những xác chết – cho tới tâm lý, chính trị và
tinh thần.
Cả
quân đội miền Bắc lẫn miền Nam đều không có thông tin chi tiết về an táng liệt
sỹ, không có các đơn vị chuyên ghi chép mộ chí, không có phù hiệu như thẻ bài
quân nhân, và cũng không có thông báo chính thức cho thân nhân liệt sỹ. Việc
chôn cất chỉ có tính tình thế. Sau mỗi trận đánh, bên thắng cuộc chiếm giữ trận
địa phải chịu trách nhiệm giải quyết các thi thể để lại trên chiến trường. Điều
này thường dẫn đến những hầm chôn tập thể vô danh, đặc biệt đối với thi thể của
phía bên kia. Hiếm khi có quan tài, ngoại trừ cho các sĩ quan.
Cả
quân nhân và dân thường đều bị sốc bởi cách thức đối xử vô nhân đạo với người
chết. Người Mỹ thế kỷ 19 chia sẻ một cách sâu sắc quan điểm về cái gì tạo thành
một “cái chết đẹp”, có thể quyết định số phận của mỗi người ở cõi bên kia ra
sao. Giờ đây, các hành xử trên chiến trường dường như tung hê hầu hết mọi hy vọng
và trông đợi đối xử đúng mực với người chết. Một người lính quan sát rằng đàn
ông được chôn cất như thể họ chỉ là con “gà toi” không hơn không kém. Đối diện
với hoàn cảnh mọi giả định cơ bản về nhân phẩm và nhân dạng bị xói mòn, cả dân
thường và binh lính về mặt hình thức đều cố giữ một vài đức tin và tập quán của
họ. Binh lính cố gắng xác định danh tính đồng đội, đào và dánh dấu mồ mả từng
người hoặc chôn những người không quen biết với một số chỉ dấu – có thể là tên
và giấy tờ để trong chai lọ – để sau này có thể tìm lại được. Nhiều tổ chức thiện
nguyện được hình thành để đảm nhận công việc mà chính quyền không làm – lập bản
đồ vị trí các ngôi mộ và ghi lại tên của những người bị giết. Đồng đội tổ chức
tang lễ tạm thời, tìm cách giữ gìn vẻ tôn kính và ý nghĩa ngay cả trong điều kiện
đầy bi thảm. [Hôm qua tôi có vinh dự to lớn được thăm nghĩa trang quân đội tại Ấp
Bắc. Được hình thành một thập kỷ sau cuộc Nội chiến của chúng tôi, ở nơi cách
xa nửa vòng trái đất, nghĩa trang này cũng thể hiện cùng một nhu cầu nhân văn cấp
bách vinh danh người chết và sự hy sinh của họ].
Mặc
dù có những nỗ lực như vậy, trong cuộc nội chiến Mỹ, hàng trăm ngàn người — hơn
40% người Yankee và một tỷ lệ lớn hơn rất nhiều những người lính Liên minh miền
Nam – đã bỏ mạng mà không có tên tuổi gì, bị nhận dạng là “vô danh”. Với người
Mỹ hiện đại, điều này dường như không thể tưởng tượng nổi. Đối với đất nước các
bạn, điều này chẳng xa lạ gì bởi con số những người mất tích và không xác định
được danh tính trong cuộc nội chiến của chúng tôi – ước chừng 300 ngàn người –
có thể là khá gần với số mất tích của người Việt trong chiến tranh Đông Dương
2. Ngày nay, hàng năm Hoa kỳ chi hơn 100 triệu đô-la cho nỗ lực tìm kiếm và nhận
dạng những người mất tích trong Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Hàn Quốc
và Chiến tranh Việt Nam. Tôi tin rằng các bạn đều rất quen thuộc với hoạt động
tích cực của MIA sau năm 1975. Nhưng sự thừa nhận rằng nước Mỹ có trách nhiệm
phải giải trình và hồi hương – dù đã chết hay còn sống – mọi binh sĩ đang thực
hiện nhiệm vụ chỉ mới bắt đầu gần đây.Chỉ từ chiến tranh Hàn Quốc, Hoa Kỳ mới
thiết lập chính sách nhận dạng và hồi hương mọi liệt sỹ. Phải đến Thế chiến thứ
nhất binh sĩ mới bắt đầu đeo phù hiệu nhận dạng chính thức – cái mà ngày nay
chúng ta gọi là thẻ bài quân nhân.Nhưng cuộc cách mạng cả về tâm thức và thực
hành này thực tế đã bắt đầu từ Nội chiến. Hệ thống ghi sổ mồ mả trong quân đội
bắt đầu xuất hiện vào cuối cuộc chiến, và khi chiến tranh kết thúc, chính phủ
Hoa kỳ đã bắt đầu thiết lập hệ thống nghĩa trang quốc gia, một nghĩa vụ trọng đại
của nhà nước để ghi nhận công lao của những người đã ngã xuống bảo vệ đất nước.
Trong
khoảng thời gian từ 1866 đến 1871, khi chiến sự hoàn toàn lắng xuống, quân sỹ
Liên bang miền Bắc được cử đi khắp các miền quê bị chiến tranh giày xéo để tìm
thi thể đồng đội. Cuối cùng, họ định vị và an táng được 303 ngàn người trong 74
nghĩa trang quốc gia mới và nhận dạng thành công hơn một nửa số họ tìm được. So
với trước chiến tranh, khi khi quyền lực và chương trình hành động của chính
quyền rất hạn chế, thì những nỗ lực vô cùng to lớn này là điều không thể tưởng
tượng nổi. Dự án an táng liệt sỹ định nghĩa một kiểu quốc gia dân tộc khác trước,
một chính quyền mới cống hiến cho phẩm giá của mỗi con người còn sống hay đã chết,
một chính quyên của dân, do dân và vì dân, những người đã đứng lên để bảo vệ đất
nước.
Nhưng
ngay cả những sáng kiến liên bang chưa từng có tiền lệ này cũng không thể làm dịu
cảm giác mất mát và tang tóc bao trùm đất nước. Hàng trăm ngàn người Mỹ bị bỏ lại
với khoảng trống khủng khiếp của sự không chắc chắn về số phận vẫn chưa được
sáng tỏ của những người thân yêu. Trong suốt quãng đời còn lại, thân nhân của họ
vẫn luôn tự hỏi về số phận của người chồng, người cha, hay người con trai mất
tích. Một người phụ nữ đau đớn kể lại “phải mất nhiều năm tôi mới từ bỏ hy vọng
rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ xuất hiện. Trong đầu tôi luôn nghĩ rằng ông ấy bị
bắt làm tù binh và giải đi, nhưng ông ấy sẽ tìm đường trở về với tôi”. Thi thể
không được nhận dạng khiến gia đình mất người thân đeo đẳng với sự không chắc
chắn, đồng thời hy vọng vào điều kỳ diệu, tuy là ảo tưởng, để cuộc sống trở nên
dễ chịu hơn.
Hậu
quả của chiến tranh. Thách thức lâu dài làm thế nào sống với tàn dư của chiến
tranh. Ambrose Bierce, một nhà văn từng phục vụ trong quân đội Liên bang miền Bắc,
đã viết về việc thường xuyên bị ám ảnh bởi “ảo mộng về người chết và sự chết
chóc”, và tự cảm thấymình “bị kết án phải sống”, và lý giải những cái chết trong
cuộc Nội chiến đã định nghĩa lại cuộc sống như thế nào. Năm 1875, Sydney
Lanier, một nhà thơ Liên minh miền Nam, vừa là chiến sĩ vừa là tù nhân chiến
tranh, đã nhận xét rằng đối với phần lớn “kể từ cuộc chiến, đối với thế hệ của
ông ở miền Nam, toàn bộ cuộc đời gần như chỉ là sự ngắc-ngoải”. Một kiểu mặc cảm
tội lỗi của người sống sót. Một phiên bản của tình trạng căng thẳng hậu sang chấn
đè nặng không chỉ lên mỗi cá nhân mà toàn xã hội.
Hậu
quả chiến tranh là tàn phá – con người bị thương và biến dạng; trẻ em trở thành
mồ côi; tài sản và nguồn sinh kế bị phá hủy; kinh tế đảo lộn; dân chúng chia rẽ.Nhưng
hậu quả không chỉ dừng lại ở cơ thể, mà còn nằm trong tâm hồn, thậm chí trong
tâm hồn của những người sinh ra rất lâu sau khi tiếng súng đã tắt. Đó là vì sao
cuộc nội chiến Mỹ và cái giá to lớn của nó tiếp tục ảnh hưởng đến các tranh luận
của chúng tôi ngày nay. Đó là vì sao các thành viên Harvard niên khóa 1967, các
ông bà nay đã ở độ tuổi 70, cảm thấy sự cấp thiết phải đối diện với những kinh
nghiệm từ hơn năm thập kỷ trước, những ký ức của một thời khi “Việt Nam” đòi hỏi
họ phải định nghĩa chính họ và quốc gia của họ. Đó là vì sao tôi hết sức vui mừng
cuối cùng cũng đã được đặt chân đến đất nước các bạn, bởi tôi cũng cùng thế hệ
với họ.
“Tại
sao lựa chọn chiến tranh? Tại sao anh phải viết về cuộc chiến?” nhân vật Kiên
trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh tự vấn.
Ngay cả khi anh ta cố gắng hết sức để tìm một chủ đề khác, anh cũng “không thể
thôi viết về chiến tranh”. Cũng như anh, chúng ta viết, chúng ta trò chuyện và
chúng ta ghi nhớ bởi chúng ta đều cố gắng để hiểu chiến tranh đã nhào nhặn
chúng ta ra sao. Việt Nam và Hoa Kỳ đã đối đầu nhau trong một cuộc chiến kéo
dài và tàn phá nặng nề. Giờ đây, riêng cũng như chung, chúng ta đang đối diện với
hậu quả của nó.
Trong
nỗ lực này, lịch sử là điều không thể thiếu. Lịch sử giúp chúng ta đối diện với
những vong hồn và ma quỷ mà bi kịch quá khứ để lại như một di sản cho hiện tại.
Nó soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng
ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình.
GS
Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng ĐH Harvard
------------------
TIN LIÊN QUAN :
No comments:
Post a Comment