Thứ Sáu, 12/30/2016 - 00:10 — nguyenvubinh
Một trong số các vấn đề rất phức tạp và tế nhị trong
nền chính trị Việt Nam nói chung và quan điểm của các tổ chức, hội nhóm và cá
nhân nói riêng là quan điểm phải ứng xử như thế nào với di sản của chế độ công
sản, sau khi nó sụp đổ. Đó là việc đánh giá khách quan một chế độ, một đảng
lãnh đạo nhà nước đã tồn tại gần một thế kỷ, tác động toàn diện và mọi mặt vào
đời sống nhân dân. Trong phạm vi hẹp hơn, là ứng xử với đội ngũ cán bộ, công chức
hùng hậu của chế độ cũ, cùng những hệ lụy mà ảnh hưởng còn đang tác động trực
tiếp đến người dân. Mặc dù công việc này vô cùng khó khăn, phức tạp và nhạy cảm,
nhưng chúng ta vẫn cần phải làm triệt để và rốt ráo vì ba lý do sau.
Thứ nhất, vấn đề
thống nhất nhận thức. Chế độ cộng sản, với những khẩu hiệu và mục tiêu tốt đẹp
nhưng mục đích thật sự là tiêu diệt và đày đọa người dân để tạo lập một sự thống
trị, cùng với hệ thống giáo dục và tuyên truyền đã tạo ra sự hỗn loạn trong nhận
thức. Sự khác nhau và hỗn loạn trong nhận thức về chế độ cộng sản đã vượt
quá xa sự xác lập chân lý, hay nhận thức đúng về một chủ thể hiện đang tồn tại.
Chính vì vậy, ngay khi chế độ sụp đổ, hay bị loại bỏ, cần có đánh giá khách
quan, chính xác về chủ thể này. Chỉ có thống nhất nhận thức về chế độ cộng sản,
từ đó mới có các đồng thuận trong việc xác lập những giá trị nền tảng về đạo đức,
nhân bản và tiến bộ.
Thứ hai, với việc
phân chia giai cấp, chế độ cộng sản đã gây sự chia rẽ trầm trọng trong lòng dân
chúng. Không những vậy, ở Việt Nam do ngay từ đầu, cộng sản chưa chiếm được
toàn bộ lãnh thổ mà phải chia đôi đất nước, tạo ra cuộc nội chiến vì ý thức hệ.
Cộng sản miền bắc đã chiến thắng và đối xử với miền Nam như một lực lượng chiếm
đóng nên đã gây ra sự chia rẽ và hận thù sâu sắc. Vậy nên, chỉ có đánh giá
đúng, khách quan cùng với những ứng xử hợp lý mới hi vọng xóa bỏ được sự chia rẽ
và hận thù trong nội bộ người dân Việt Nam.
Thứ ba, còn rất
nhiều những chính sách, những công việc dang dở của nhà cầm quyền Việt Nam tác
động trực tiếp vào đời sống người dân sau khi chế độ sụp đổ. Chính vì vậy, nếu
không có các quan điểm đúng, khách quan sẽ không thể có cơ sở để giải quyết các
vấn đề dang dở đó trong thực tiễn.
Qua nhiều năm tìm hiểu,
nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản, về các chế độ cộng sản trong các mối tương
quan với quốc tế cộng sản, đồng thời nghiên cứu về cơ chế vận hành, những đặc
trưng, đặc thù của chế độ cộng sản, chúng ta có thể đi tới một số nhận định
quan trọng về chủ nghĩa cộng sản, các chế độ cộng sản đã và đang tồn tại như
sau:
- Trước hết, chủ nghĩa cộng
sản, các chế độ cộng sản (hay còn gọi là các nước Xã hội chủ nghĩa) là thảm họa
chung của nhân loại. Với mục đích thống trị nhân loại bằng nghệ thuật tiêu diệt
và đày đọa con người, chủ nghĩa cộng sản (hay các chế độ cộng sản) đã trực tiếp
và gián tiếp giết chết hơn 100 triệu người và đày đọa hơn 2 tỷ người trên toàn
thế giới. Một số nước kém may mắn nên phong trào cộng sản đã thắng thế, đảng cộng
sản đã nắm được quyền lãnh đạo đất nước, thực thi chính sách chung của quốc tế
cộng sản. Việt Nam là một trong số các nước gặp phải họa cộng sản, trong thảm họa
chung của nhân loại.
- Điều đặc biệt nhất của
các nhà nước cộng sản, đó là họ xây dựng được một cơ chế, và cơ chế này tự hoạt
động một cách hiệu quả, hủy diệt thành công tinh thần phản kháng của người dân
(xem thêm bài: Phác họa lại chân dung một chế độ, http://www.rfavietnam.com/node/2753).
Khi nói tới cơ chế, và cơ chế tự hoạt động, chúng ta nên hiểu là không ai đi
ngược lại được cơ chế, guồng máy đó và khi đã tham gia vào cơ chế, tất cả đều
phải thực hiện các công việc theo mục tiêu cơ chế, guống máy đó vận hành.
- Các nhà nước cộng sản còn
có hai đặc trưng quan trọng. Một là, hầu như không ai hiểu được bức tranh toàn
cảnh, toàn bộ hệ thống vận hành cơ chế, nhưng nó vẫn diễn ra và vận hành trơn
tru, tạo ra nhiều hậu quả khủng khiếp. Hai là, các chế độ cộng sản, hầu hết đều
tự sụp đổ, dưới sức nặng của chính nó.
Khi chúng ta hiểu được, chủ
nghĩa cộng sản và các chế độ cộng sản là thảm họa chung của nhân loại, có nghĩa
đó là một tất yếu lịch sử mà nhân loại phải trải qua. Đồng thời, có một điều
duy nhất có ý nghĩa mà chế độ cộng sản đã làm được cho nhân loại. Đó là cảnh
báo loài người, nếu nhân loại không cảnh giác, có những điều khủng khiếp vượt
xa tất cả trí tưởng tượng của loài người, sẽ xảy ra trong thực tế cuộc sống của
con người...
Hà Nội, ngày 30/12/2016
N.V.B
*
*
Thứ Bảy, 12/31/2016 - 00:49 — nguyenvubinh
Chế độ cộng sản ở Việt Nam mang đầy đủ các đặc
tính của chế độ cộng sản nói chung, nhưng còn có thêm những điều khác biệt. Đó
là cuộc nội chiến và hai cuộc chiến tranh với Cam-pu-chia và Trung Quốc. Phải đến
tận những năm 1988-1989 thì Việt Nam mới im hẳn tiếng súng chiến tranh trên
toàn lãnh thổ. Sự khốc liệt mà chế độ cộng sản đem lại được cộng hưởng với sự
khốc liệt của các cuộc chiến tranh càng làm cho sự đau thương và tang tóc của
nhân dân tăng lên gấp bội. Điều khác biệt của Việt Nam với các nước cộng sản
Liên Xô và Đông Âu còn ở chỗ, từ khoảng những năm 1991-1993 đến nay, nhà cầm
quyền cộng sản Việt Nam đã lợi dụng quyền lực, sử dụng quyền lực để trục lợi từ
các chính sách kinh tế. Đồng thời, để duy trì chế độ độc tài toàn trị, duy nhất
đảng cộng sản lãnh đạo đất nước, nhà cầm quyền đã dồn nén mọi giai tầng xã hội,
mọi tôn giáo một cách cực kỳ khốc liệt.
Để xác định thái độ và
phương cách ứng xử với di sản của chế độ cộng sản, chúng ta cần tham khảo kinh
nghiệm của thế giới trong vấn đề này. Việc đầu tiên, là thái độ hay đánh giá
khách quan về chủ nghĩa cộng sản và các chế độ cộng sản, chúng ta có thể tham
khảo nước Mỹ và các nước châu Âu. Nước Mỹ đã xây dựng công trình Đài Tưởng niệm
Nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản với mục đích để lịch sử về sự tàn bạo của cộng
sản sẽ được dạy cho thế hệ tương lai và để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của
chủ nghĩa cộng sản. Tượng Đài đã được Tổng thống Mỹ George W. Bush khánh thành
vào ngày 12/6/2007. Ở châu Âu, vào ngày 25/02/2010 nhiều chính trị gia và các
nhà hoạt động nhân quyền, các sử gia đã ký và ra tuyên bố về tội ác của chủ
nghĩa cộng sản tại Praha, Cộng hòa Séc. Đồng thời, Hội đồng Nghị viện của Ủy hội
châu Âu (Ủy hội châu Âu là cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu) đã ra nghị
quyết 1481 lên án chủ nghĩa cộng sản và coi chủ nghĩa cộng sản đã phạm tội ác
chống lại loài người, vào ngày 25/01/2006. Như vậy, việc đầu tiên là đánh giá,
xác định rõ thái độ đối với chế độ cộng sản. Ở Việt Nam chúng ta, cũng cần phải
có thái độ và quan điểm tương tự. Điều khác biệt là, ở Việt Nam, do nhận thức của
người dân còn rất nhiều hạn chế, chúng ta cần tập hợp tất cả tội ác của chế độ
cộng sản Việt Nam và dùng lý lẽ, lập luận và các dẫn chứng để chứng minh tội ác
của chế độ cộng sản. Nếu cần thiết, chúng ta sẽ để cho những ai chưa hiểu trao
đổi và phản biện, tranh luận. Khi đã giải quyết được tất cả những ý kiến phản
biện, chúng ta cần có động thái lên án chế độ cộng sản ở Việt Nam với toàn thể
nhân dân. Chúng ta cũng sẽ đưa ra thảo luận, về việc yêu cầu đại diện tập thể
lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đứng ra thay mặt chế độ cộng sản xin lỗi nhân
dân về những tội ác mà đảng cộng sản và chế độ đã gây ra.
Về chính sách, chế độ của lực
lượng cán bộ, công chức chế độ cũ, chúng ta cũng tham khảo ứng xử của các quốc
gia châu Âu khi chế độ cộng sản sụp đổ. Bản thân người viết chưa có điều kiện
tìm hiểu nhiều, nhưng thông qua báo chí và thông tin trên mạng Internet, hầu
như không có sự trả thù, cũng như tiêu diệt hay đày đọa các đảng viên cộng sản
(ngoại trừ những biến cố do hỗn loạn khi chế độ sụp đổ). Thậm chí, tiền lương
hưu, phụ cấp của những người công chức thuộc chế độ cộng sản vẫn được bảo toàn.
Tất nhiên, ở Việt Nam có những khác biệt cần phải làm rõ và có ứng xử khác. Như
đã nêu, ở Việt Nam, từ những năm 1991-1993 tới nay, nhà cầm quyền Việt Nam đã lợi
dụng và sử dụng quyền lực để trục lợi qua chính sách kinh tế, đồng thời để xảy
ra tình trạng tham nhũng khủng khiếp. Hậu quả để lại là khoản nợ lên tới trên
200% GDP của nền kinh tế. Đây là điều khác biệt cần làm rõ và gắn vào việc giải
quyết chính sách hậu cộng sản. Theo ý kiến của cá nhân người viết, cần gắn
trách nhiệm của lãnh đạo đảng cộng sản, nhà nước và chính phủ Việt Nam các giai
đoạn từ 1991 tới nay về vấn đề kinh tế. Cách thức và mức độ cần được bàn bạc
công khai, minh bạch và được sự đồng thuận của toàn dân.
Một quan điểm về hồi tố,
chúng ta không thể bỏ qua vấn đề hồi tố bởi vì sự oan khuất và hận thù của người
dân không được giải tỏa sẽ đưa tới những hậu quả khôn lường. Vấn đề là giới hạn
của hồi tố tới đâu? Đó là những vi phạm của cá nhân, cơ quan chức năng đối với
chính luật pháp mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đặt ra. Có nghĩa là, sẽ hồi
tố những vụ án, những sự việc mà các cán bộ và cơ quan của chế độ cộng sản vi
phạm chính pháp luật mà cộng sản đưa ra. Chúng ta cần có Ủy ban hòa giải và hòa
hợp dân tộc để xử lý hết những trường hợp này.
Quan điểm chung là: chúng
ta không trả thù, chúng ta không đày đọa người cộng sản sau khi chế độ cộng sản
sụp đổ. Nhưng chúng ta phải làm rõ đúng, sai, công, tội để thống nhất nhận thức
của nhân dân. Đồng thời, cần bắt họ chịu trách nhiệm về những việc họ đã làm. Nếu
chỉ là mù quáng về lý tưởng, dẫn tới những hậu quả cho cá nhân và đất nước, như
từ những năm 1990-1991 trở về trước, chúng ta có thể không truy cứu. Nhưng còn
việc trục lợi, gây ra hậu quả nghiêm trọng (khoản nợ khổng lồ) thì cần truy cứu
trách nhiệm. Mặt khác, khi đã đề ra pháp luật, mà cá nhân và cơ quan nhà nước lại
vi phạm chính pháp luật đó, gây đau khổ cho người dân và trục lợi thì chúng ta
cần bắt họ chịu trách nhiệm. Chỉ có làm công tâm như vậy, chúng ta mới giải quyết
triệt để di sản của quá khứ.
Một nguyên tắc cần tuyệt đối
tôn trọng, đó là khi trao đổi, bàn bạc các chính sách hậu cộng sản, người dân
phải được biết và tham gia đầy đủ. Chỉ khi nào có sự đồng thuận của người dân,
chúng ta mới thực hiện các chính sách đó./.
Hà Nội, ngày 31/12/2016
N.V.B
No comments:
Post a Comment