Thứ
Bảy, ngày 03 tháng 12 năm 2016
.
Họa sĩ Trịnh Cung (ảnh:
Uyên Nguyên)
.
1.- "Dòng chính" là gì và tại sao phải
là "Dòng Chính" (main-stream)?
Ở
mỗi quốc gia đều có một xu thế văn hoá riêng, một môi trường xã hội chính trị-kinh
tế riêng, một dòng chủ lưu nghệ thuật đang chi phối mọi hoạt động của những ai
có liên quan. Tuy nhiên, dòng chủ lưu văn hoá hay là xu thế chính về văn hoá của
mỗi quốc gia có mức độ quan trọng khác nhau. Ở những nước yếu, chậm phát triển
thì tầm quan trọng của nó chỉ nằm trong giới hạn nội địa, thậm chí nó còn dễ bị
các dòng văn hoá mạnh của một số siêu cường tràn vào, làm đổi màu dòng văn hoá
bản địa, nhất là ở vào thời đại "toàn cầu hoá" ngày nay.
Vì
thế, khi những nghệ sĩ thuộc những quốc gia ở những vùng lục địa kém văn minh,
chậm phát triển, khi di cư đến những đất nước phương Tây hoặc Hoa Kỳ, đều phải
đối diện với vấn đề "Dòng Chính" nếu muốn hội nhập đúng nghĩa vào môi
trường văn nghệ bản địa để thăng tiến sự nghiệp.
Tuy
nhiên, riêng với nghệ thuật, để trở thành một hoạ sĩ thuộc dòng chính tại Mỹ là
không dễ, rất khó là hiển nhiên, vì đây là một đất nước khổng lồ về mọi mặt,
nơi có một số trung tâm nghệ thuật quyền lực nhất thế giới như thành phố New
York, như thành phố Los Angeles,... là những nơi tập họp những tài năng nghệ
thuật lớn trên toàn thế giới, phần lớn là người da trắng đến từ châu Âu từ hằng
chục thập kỷ trước. Thứ đến là người Mỹ gốc Phi châu, họ đã và đang là một thế
lực văn hoá có sức phủ sóng rộng lớn khắp nước Mỹ, gây ảnh hưởng rất lớn trong
dòng chính văn nghệ Hoa Kỳ. Do vậy, sự quyến rũ của danh vọng ở đây ngày càng
tăng đối với giới làm nghệ thuật không chỉ riêng đối với người Mỹ mà cả thế giới.
Do vậy, nên khi một nghệ sĩ góc Á châu nào đó đang lưu vong mà chen chân được
vào dòng chính ở đây thì được coi như một thành công quan trọng rất
đáng hãnh diện, một giấc mơ đã hiện thực.
2.-
Mỹ thuật của người Mỹ gốc Việt từ Cộng đồng đến Dòng chính tại Hoa Kỳ.
Chắc chắn đây là một vấn đề không dễ trình bày một cách đầy đủ vì nước Mỹ quá rộng lớn, người Việt cư ngụ khá phân tán, dù từ nhiều năm trước cũng đã đến nhiều thành phố như New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles, Seattle, Indiana, New Oleans, Houston, tác giả không thể cho rằng những hiểu biết của mình về vấn đề được đề cập như trên là chính xác, chỉ là tương đối, rất cần sự bổ sung của quí thân hữu để cho đề tài được lý giải hoàn chỉnh hơn.
Chắc chắn đây là một vấn đề không dễ trình bày một cách đầy đủ vì nước Mỹ quá rộng lớn, người Việt cư ngụ khá phân tán, dù từ nhiều năm trước cũng đã đến nhiều thành phố như New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles, Seattle, Indiana, New Oleans, Houston, tác giả không thể cho rằng những hiểu biết của mình về vấn đề được đề cập như trên là chính xác, chỉ là tương đối, rất cần sự bổ sung của quí thân hữu để cho đề tài được lý giải hoàn chỉnh hơn.
Và
xin nhấn mạnh những gì tác giả nêu ra ở đây không có tính phê bình, hay cố
tình xúc phạm một nghệ sĩ nào mà chỉ thuần về dẫn giải tình hình hoạt động mỹ
thuật của người Việt tại Mỹ, chủ yếu tập trung về miền Nam California.
A. Nghệ sĩ Việt lưu vong là của riêng cộng đồng người Việt ở hải ngoại và chỗ đứng của họ mãi mãi là trong lịch sử của nền hội hoạ Việt Nam.
Không chỉ riêng cho mỹ thuật, các bộ môn nghệ thuật khác, các văn nghệ sĩ người Việt lưu vong cũng đều hoạt động cho cộng đồng người Việt tại Mỹ là tất yếu kể từ sau ngày 30-4-1975, vì cả hai, nghệ sĩ và cộng đồng đều cần nhau, dựa vào nhau mà cùng tồn tại. Đó cũng là cách dựng lại một phần quê hương mà họ đã bị tước đoạt sau ngày 30-4-75. Văn hoá là thứ quê hương không ai đánh cướp được của họ và cũng là số vốn cần thiết và quan trọng nhất để họ đứng lên, vượt qua mọi khổ đau, mọi nghiệt ngã để làm lại cuộc đời trên xứ lạ quê người.
A. Nghệ sĩ Việt lưu vong là của riêng cộng đồng người Việt ở hải ngoại và chỗ đứng của họ mãi mãi là trong lịch sử của nền hội hoạ Việt Nam.
Không chỉ riêng cho mỹ thuật, các bộ môn nghệ thuật khác, các văn nghệ sĩ người Việt lưu vong cũng đều hoạt động cho cộng đồng người Việt tại Mỹ là tất yếu kể từ sau ngày 30-4-1975, vì cả hai, nghệ sĩ và cộng đồng đều cần nhau, dựa vào nhau mà cùng tồn tại. Đó cũng là cách dựng lại một phần quê hương mà họ đã bị tước đoạt sau ngày 30-4-75. Văn hoá là thứ quê hương không ai đánh cướp được của họ và cũng là số vốn cần thiết và quan trọng nhất để họ đứng lên, vượt qua mọi khổ đau, mọi nghiệt ngã để làm lại cuộc đời trên xứ lạ quê người.
Để
có một cuộc sống tương đối tốt đẹp, người Việt tỵ nạn phải mất 21 năm làm lại
cuộc đời trên đất Mỹ kể từ 1975 đến 1996. 1996 là năm tôi đến Mỹ lần đầu,
sau 21 năm. Nếu lấy con số 21 năm như vừa nêu trên cộng với số tuổi của những
người bạn như các anh chị: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Trương Thị Thịnh, Nguyễn Trí
Minh, Vị Ý, Hiếu Đệ, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Quỳnh, Đinh Cường...
lúc sang Mỹ vào khoảng trên dưới 40 tuổi thì cũng đã hơn 50 tuổi thì khó
mà có một sự thay đổi lớn trong cách vẽ và tư duy nghệ thuật để phù hợp với
"dòng chính" nghệ thuật Hoa Kỳ, hay nói một cách dễ hiểu hơn là tranh
của họ với một nội dung đầy tính tự sự của người Việt Nam vốn rất nặng
tính hoài niệm quá khứ của dân tộc mình thì làm sao khơi lên được cảm xúc của
người bản địa vốn có một nền văn hoá rất khác với VN và chưa đủ thân thiện để
dành cho mỹ thuật của những vị khách xa lạ kia một sự quan tâm đáng kể.
Khái
quát là như vậy, về thực tế các hoạ sĩ của chúng ta đã tái lập cuộc sống của
mình trên đất Mỹ thật cực kỳ khó khăn sau khi đến được vùng đất tự do. Trong số
họ có người đem được cả gia đình theo, có người đi một mình, thất lạc vợ con, tất
cả đều trắng tay, lạc lõng giữa xứ người mênh mông và lạ lẫm trăm bề.
Trước
khi họ có được một cuộc sống tốt đẹp như tôi đã thấy tận mắt vào năm 1996 khi lần
đầu được đến Mỹ với tư cách một khách mời của một Trường Đại học thì họ đã phải
làm lao động đủ mọi nghề kể cả việc lau dọn nhà vệ sinh để kiếm cơm, họ cũng đã
làm báo, làm truyền thanh, ca hát, viết văn, vẽ tranh, làm tượng, diễn kịch,
đóng tuồng,... để nuôi nhau, để đồng cam cộng khổ vì "Anh Phải Sống".
Một ví dụ, nhà điêu khắc thuộc hàng đầu Việt Nam, Mai Chửng đã bán bánh mì trước
cổng các hãng xưởng ở San Jose, sau đó qua Hawaii lái taxi kiếm được nhiều tiền
hơn hòng đủ để gởi về VN nuôi vợ và 3 người con, ngoài ra phải để dành đủ để bảo
lãnh vợ con qua Mỹ đoàn tụ rồi mới tính tiếp chuyện tiếp tục làm điêu khắc.
Một
trường hợp khác, anh Trần Xuân Thành, nguyên là sĩ quan Cục Tâm Lý Chiến,
qua Mỹ diện HO, trước khi làm phóng viên nhiếp ảnh cho nhật báo NV, đã làm việc
quét dọn cho một nhà thờ ở quận Cam mấy năm đầu định cư ở đây. Các nhà văn, nhà
thơ,... nhiều người cũng làm nghề chạy bàn (phục vụ nhà hàng), cắt cỏ, xúc tuyết,...
để kiếm sống. Các bác sĩ, thầy giáo, sĩ quan các cấp, các ca nhạc sĩ, vân
vân và vân vân cũng chẳng mấy ai có được cuộc sống như ý, như thời hoàng kim của
họ trước khi Sài Gòn thất thủ.
Chuyến
đi này là một bước ngoặt đối với tôi, nó làm thay đổi cuộc đời tối tăm của tôi
sau hơn 20 năm kể từ sau sự thảm bại của Miền Nam Quốc Gia. Tôi được đi nhiều
nơi, viếng nhiều bảo tàng mỹ thuật danh tiếng, gặp gỡ nhiều đồng nghiệp nổi tiếng
lớp trước, lớp đồng thời và cả lớp vừa tốt nghiệp các trường mỹ thuật của Hoa Kỳ
(thế hệ 1,5) như Hoàn Vũ, Long Nguyễn, Ann Phong. Họ sống và làm việc thuộc
vùng Orange County và Los Angeles và ngày nay đã thành danh. Trong số 3 bạn
ấy, Hoan Vu là (có lẽ) người nghệ sĩ đương đại gốc Việt đầu tiên được cấp một
studio trong khu Bergamot Station Arts Center của Santa Monica-Los Angeles vào
khoảng năm 1998. Đây là một trong những trung tâm nghệ thuật đương đại dành cho
những tài năng mới đến sống và sáng tác, được sự tài trợ một phần đáng kể tiền
thuê nhà nhằm tạo cơ hội cho họ trở thành nghệ sĩ đẳng cấp của mỹ thuật Hoa Kỳ
sau một thời gian thử thách nhất định. Có thể coi đây là khởi nghiệp cho mỹ thuật
dòng chính Hoa Kỳ của Vũ.
Trở
lại vấn đề mỹ thuật cộng đồng và mỹ thuật dòng chính của các hoạ sĩ người Mỹ gốc
Việt, thế hệ di tản qua Mỹ sớm và đã từng có danh ở Sài Gòn trước 75 như các
anh hay chị: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Vị Ý, Nguyễn Trí Minh, Trương Thị
Thịnh, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Quỳnh,... sau đó là Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, Đinh Cường,
Mai Chửng, Nguyên Khai, Nguyễn Phước, Hồ Thành Đức- Bé Ký, Nghiêu Đề,...
Tất
cả họ đều đứng bên ngoài nền hội hoạ Mỹ (dòng chính) như một tất yếu dù xét về
mặt tài năng, họ chẳng kém các hoạ sĩ bản địa.
Có
thể đưa ra những lý do sau đây giải thích vì sao các anh chị ấy chọn đứng bên
ngoài "dòng chính"
- Là kẻ di tản đến Mỹ với hai bàn tay trắng.
-
Môi trường văn hoá hoàn toàn xa lạ. Khó hội nhập được vào xã hội Mỹ. Nước Mỹ
quá rộng, họ bị xé rời ra mỗi người một phương. Mọi trật tự và những giá trị mà
giới hoạ sĩ như đã kể tên đã tạo ra trong những thập niên 60-70 ở Miền Nam Việt
Nam nay đã tan vỡ khi họ phải sinh tồn trong những cộng đồng nhỏ nhoi nằm rải
rác khắp các tiểu bang của Hoa Kỳ.
-
Làm văn nghệ của giới văn nghệ sĩ người Việt lưu vong, không riêng ở Mỹ, là một
nỗ lực có tính níu kéo một quá khứ tốt đẹp một thời nhằm nuôi dưỡng, vực dậy
tinh thần của chính họ khi đang ở bên bờ vực tuyệt vọng.
-
Cái hoài vọng và tình yêu quê nhà luôn chiếm lĩnh tâm hồn họ nên nghệ thuật của
họ là sự nối dài những đề tài quen thuộc từng tạo nên những giá trị được xưng tụng
trước ngày Sài Gòn hoàn toàn thất thủ.
-
Nếu có một ai trong số họ đã thử thời vận bằng cách đưa tranh mình đến một vài
gallery của người Mỹ thì cũng không có kết quả gì đáng kể. Lý do là tranh của
hoạ sĩ Việt Nam không chạm được vào cảm quan nghệ thuật của giới chơi tranh
chuyên nghiệp người Mỹ (có mục đích đầu tư) nên không mấy ai sưu tập và do
đó đã không mang lại lợi nhuận cho gallery.
-
Lý do sau cùng là ngoài một số hoạ sĩ thành danh hàng đầu của mỹ thuật Sài Gòn
như Tạ Tỵ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Hiếu Đệ, Ngy Cao Uyên,... chủ trương sống
yên lặng, một số khác đã khá thành công trong phổ biến và được đón nhận nồng
nhiệt tác phẩm bởi những người đồng hương yêu tranh ở khắp nơi trên đất Mỹ như
các anh chị hoạ sĩ Đinh Cường, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức - Bé Ký, Nguyễn Phước,...
nên việc vào dòng chính không còn là điều cần thiết với lớp hoạ sĩ VN thuộc thế
hệ có tuổi như đã vừa đề cập.
Tuy
nhiên, cũng cần đề cập tới 2 trường hợp đã từng đặt chân, hay đúng hơn là đã có
cơ hội không thể tốt hơn để trở thành hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên bước vào dòng
chính mỹ thuật Hoa Kỳ, tôi muốn nói tới trường hợp của hai anh, một là Võ Đình,
hai là Nguyễn Quỳnh.
Võ
Đình không phải là hoạ sĩ di tản vì vụ 30-4-75, anh đi du học trước đó, ở Pháp,
sau chuyển qua sống ở Mỹ. Hội hoạ của Võ Đình thuộc khuynh hướng Trừu Tượng
mang tinh thần phương Đông. Giới quan sát nghệ thuật Tây gọi Võ Đình là Zao Wou
Ki VN (hs trừu tượng nổi tiếng thế giới, người Trung Hoa). Thành công đáng ao ước
mà Võ Đình gặt hái được là tranh anh đã từng được bày chung với các danh hoạ hiện
đại tầm thế giới như Max Ernt, Atlant, Mathieu,... tại một gallery ở New
York trước năm 1975.
Riêng
Nguyễn Quỳnh, là hoạ sĩ Sài Gòn di tản đến Mỹ vì sự kiện lịch sử
30-4-75. Không như các đồng nghiệp lưu vong khác, anh lao vào việc học và đã đỗ
hai bằng tiến sĩ, một về Lịch sử Mỹ thuật và một về Triết học tại Đại học
Colombia, New York, sau khi tới Mỹ. Nhưng đặc biệt hơn hết là hoạ sĩ Nguyễn Quỳnh
đã có tranh được Bảo Tàng danh tiếng nhất của Mỹ, Guggenheim ở New York chọn
mua trong một kỳ tìm kiếm tài năng trẻ vào thập niên 80 của thế kỷ trước. Đây
là một điều kỳ diệu, một giấc mơ vàng, một cuộc trúng số độc đắc không chỉ đối
với một hoạ sĩ gốc Việt mà của cả các hoạ sĩ của các vùng lãnh thổ kém phát triển
trên toàn thế giới thuộc độ tuổi chưa quá 40.
Thế
mà, những cơ hội hiếm hoi như vậy đến với Võ Đình và Nguyễn Quỳnh để trở thành
những hoạ sĩ đích thực của dòng chính Hoa Kỳ lại tan thành mây khói chỉ vì
họ thiếu một khả năng dấn thân toàn diện cho nghệ thuật. Có nghĩa là họ phải chỉ
sống và chết cho nghệ thuật, họ coi việc từ chối tất cả mọi trách nhiệm khác chẳng
có liên quan gì đến sáng tác là điều bình thường và bất chấp việc chọn lựa ấy sẽ
trắng tay nếu thất bại. Làm được điều như thế, người Việt mình hiếm có ai.
B. Hoạ sĩ người Việt thế hệ trẻ và Dòng Chính Hoa Kỳ.
Đây là vấn đề lớn đối với các hoạ sĩ trẻ người Mỹ gốc Việt nói riêng và giới trí thức trẻ đã được đào tạo tại các Đại học Hoa Kỳ nói chung. Đa số họ đều tự cảm thấy bị kỳ thị bởi người Mỹ da trắng khi họ phải mang trên người những chỉ dấu văn hoá của cộng đồng thiểu số Người Việt lưu vong có xuất thân là "thuyền nhân" hay HO.
B. Hoạ sĩ người Việt thế hệ trẻ và Dòng Chính Hoa Kỳ.
Đây là vấn đề lớn đối với các hoạ sĩ trẻ người Mỹ gốc Việt nói riêng và giới trí thức trẻ đã được đào tạo tại các Đại học Hoa Kỳ nói chung. Đa số họ đều tự cảm thấy bị kỳ thị bởi người Mỹ da trắng khi họ phải mang trên người những chỉ dấu văn hoá của cộng đồng thiểu số Người Việt lưu vong có xuất thân là "thuyền nhân" hay HO.
Sự
kiện cuộc triển lãm mang tên FOB đã được họ tổ chức ngay tại Bolsa, thủ phủ của
người Việt tỵ nạn, cách nay hơn 5 năm một cách qui mô để kêu gọi cộng đồng người
Việt thôi chống cộng cực đoan, tiến bộ hơn, quên hận thù, đừng kéo giới trẻ Việt
vào cái vũng lầy đau thương và thù hận vì mất nước, mất tài sản riêng,... của
các bậc cha mẹ mà bản thân họ không hề dính líu gì với cuộc chiến tranh Việt
Nam. Và cái cộng đồng "Bolsa" này dưới mắt thế hệ trẻ là một thứ
"getto" lạc hậu, một chốn còn bị dè bỉu là "gió tanh mưa
máu". Họ cảm thấy xấu hổ và cần phải có một cuộc "đối thoại"
để thay đổi, để cắt đuôi quá khứ. Tiến vào dòng chính Hoa Kỳ là mục đích phải đạt
tới của hầu hết các bạn ấy.
Đối
với mỹ thuật, trên lý thuyết, để vào được dòng chính ở đây là điều không khó vì
lợi thế của ngôn ngữ hội hoạ, một ngôn ngữ không cần phiên dịch. Tuy nhiên, lại
không dễ như chúng ta tưởng.
Nghệ
thuật vốn rất phức tạp và không ngừng thay đổi cả trong phong cách, trường phái
và cả thị trường kể từ khi hội hoạ hiện đại ra đời. Nói đến thị trường nghệ thuật
thì ngày nay nó là một quyền lực ghê gớm, nó chi phối toàn bộ hệ thống nghệ
thuật bao gồm truyền thông, thị hiếu, giá cả, giá trị, tài năng, bảo tàng,
gallery, art fair, các sự kiện Lưỡng Niên, Tam niên,... Nói chung là mọi sự
sáng tạo muốn hiện hữu, muốn được thừa nhận và lưu thông đều phải qua sự chọn lọc
của thị trường và phải trả giá. Hoa Kỳ là một thị trường lớn nhất và mẫu mực
không chỉ cho nghệ thuật mà cho tất cả mọi ngành. Mọi tài năng gần như không thể
tự trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình với các đại gallery mà hầu như phải
nhờ người đại diện chuyên nghiệp hay còn được gọi là nhà môi giới nghệ thuật
(art dealer).
Để
lọt vào mắt xanh của những nhà môi giới nghệ thuật là một điều cực khó cho hoạ
sĩ người Việt. Cho tới ngày hôm nay , chưa thực sự có ai trong các hoạ sĩ
trẻ người Mỹ gốc Việt có tranh thường trực tại các gallery thuộc đẳng cấp hàng
đầu ở New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles,...
Ở
đây, cần phân biệt nghệ thuật thị trường và nghệ thuật phi lợi nhuận, một dòng
chảy khác của nghệ thuật dòng chính tại Hoa Kỳ và thế giới. Nó không bị chi phối
bởi lợi nhuận, nó không bị định hướng thẩm mỹ vì lợi nhuận bằng quyền lực của
quảng cáo, người nghệ sĩ không phải bị (được mua độc quyền) lệ thuộc vào nhà
môi giới,... vì những tác phẩm của họ rất khác cái thẩm mỹ quen thuộc, phổ cập
mà các bậc thầy của nghệ thuật hiện đại đã làm giới chơi tranh nhà giàu phương
Tây trở thành những con nghiện.
Tuy
vậy, không vào được thị trường lớn thì vẫn có thị trường "lô cồ" tại
các quận hạt trên khắp nước Mỹ để các hoạ sĩ Việt có thể thành đạt như trường hợp
của hs Trương Bửu Giám, chuyên vẽ cá cảnh, rất được giới người Mỹ trung lưu ưa
thích, hoặc như nhà điêu khắc Tuấn Nguyen, con trai của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc
Nhâm, đã thành công ở thị trường mỹ thuật thương mại dành cho giới người Mỹ
trung lưu có thị hiếu nghệ thuật bán cổ điển. Lien Trương ở San Francisco và
Thu Nguyên ở Hawaii cũng là những khuôn mặt nghệ sĩ gốc Việt thành công trong một
chừng mực tại các vùng mà họ cư ngụ. Vậy mỹ thuật dòng chính Hoa Kỳ cũng
chẳng khác gì một dòng sông lớn với nhiều nhánh nhỏ không kể đến những kênh
đào, mỗi tình thế có những đòi hỏi tài năng thích hợp. Lớn thuyền thì lớn sóng,
câu nói này vẫn không sai?
3. Kết
Cuối cùng, mọi thứ dẫn đến thành hay bại trên con đường nghệ thuật đều phụ thuộc vào tâm thức và tài năng của người nghệ sĩ dù các bạn có thuộc màu da nào, dân tộc nào. Dòng chính hay dòng phụ không phải là lẽ sống còn của nghệ thuật, của sáng tạo và của phẩm cách người nghệ sĩ. Điều này không chỉ riêng đối với những ai còn "chân ướt chân ráo" trên đất Mỹ, một quê hương mới đầy tự do và đầy cơ hội nhưng cũng đầy nghiệt ngã.
Cuối cùng, mọi thứ dẫn đến thành hay bại trên con đường nghệ thuật đều phụ thuộc vào tâm thức và tài năng của người nghệ sĩ dù các bạn có thuộc màu da nào, dân tộc nào. Dòng chính hay dòng phụ không phải là lẽ sống còn của nghệ thuật, của sáng tạo và của phẩm cách người nghệ sĩ. Điều này không chỉ riêng đối với những ai còn "chân ướt chân ráo" trên đất Mỹ, một quê hương mới đầy tự do và đầy cơ hội nhưng cũng đầy nghiệt ngã.
Tôi
tin rằng, tập trung hoàn toàn vào sáng tạo, tác phẩm của các bạn chắc chắn sẽ
mãi mãi là những giá trị thật nhất được tạo ra bởi tài năng của các bạn, những
nghệ sĩ mang dòng máu và tâm hồn Việt Nam. Các bạn luôn luôn thuộc về nền mỹ
thuật Việt và hãy chói sáng trong nền mỹ thuật của dân tộc mình. Thế mà
cũng không phải dễ đâu, thưa các bạn.
Bolsa tháng 11-2016
TRỊNH CUNG
Bolsa tháng 11-2016
TRỊNH CUNG
No comments:
Post a Comment