19-10-2014
Kính
tặng độc giả Báo Tổ Quốc:
Quý
vị trong Hội Quân Y Hải Quân VNCH * Anh Ngô Trọng Phục và các thân hữu trong
Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Bang Minnesota * Quý vị cựu sĩ quan cơ hữu của Trường Bộ
Binh Thủ Đức.
1*
Mở bài
Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất
là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính
quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong
các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung
Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng
có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn hình vạn
trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn hình
thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản.
Ngày
nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng
đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn nầy. Ở đâu cũng có.
Vào thế kỷ 21, “kỹ thuật” đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do,
công khai và hợp pháp để đánh phá.
Phạm
vi hoạt động của Việt Cộng
Thời
nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một vòng
tròn có ba phần:
Phần
trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.
Phần
thứ hai của vòng tròn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được
thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lãnh đạo,
chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản. Đó là
những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam,
Mặt Trận Tổ Quốc…
Phần
ngoài cùng của vòng tròn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng
thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong
Trào”, như:
Phong
trào hoà bình (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng,
Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn
hoá dân tộc, Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến
bộ, Thành phần thứ ba…
2*
Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1.
Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng
Cuối
năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định
Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam tại Mỷ Tho, gồm có những người
nằm vùng trong những tờ báo như sau:
Triệu
Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn
Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo
Hoá là dược sĩ Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân,
Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn
Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu nhận
CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông
tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.
2.2.
Truy lùng Việt Cộng
Sau
cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ
nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn
Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa số là giáo sư tư
thục.
2.3.
Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh
Vũ
Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá
khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài Gòn.
Trước
1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho ra. Người
bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
Sau
ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng
kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn
nghệ sĩ chỉ quen càm bút chư có biết chơi súng đau”.
Nhưng
mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với
chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi gì, coi bộ đời
sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng
tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại
tìm người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng không khá vì thiếu nguyên
liệu.
Ít
lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang tìm đường dây cho
con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở vì sợ cái bản chất phản bội của
tên nằm vùng.
2.4.
Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1.
Tờ Tin Văn
Báo
nhà nước Việt Cộng đưa tin như sau:
“Đầu
năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm
chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép cho ra tờ
Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc
thanh niên.
Tờ
báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên
thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lãnh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và
thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).
Chủ
nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương,
Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong một ngôi chùa”.
Sau
1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê bình vạch
mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động,
đã tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên tìm cách
phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc
Ủy TW Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là “VC nằm
vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đã “vu khống tôi” cốt làm cho
những người tham gia phong trào sợ hãi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ
khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua
vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích
từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).
Tên
VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải
vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn
nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!
2.4.2.
Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ
nhiệm: Võ Long Triều
Tổng
thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC
nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ
nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ
bút: Hồ Ngọc Nhuận
2
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3.
Nói về tờ Tin Sáng
Báo
Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1.
Tin
Sáng cũ trước năm 1973
2.
Tin
Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3.
Tin
Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin
Sáng cũ trước 1973.
Toà
sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm
vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ
VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.
Trên
tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến
tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu tình của nhóm SV/VC nằm vùng
Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những
tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước
hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc
Nhuận”.
Tin
Sáng sau 1975.
Trần
Văn Giàu, tên trùm VC nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi
lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lý Chánh Trung
được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng
điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không thu lại được”. Đó là những
tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng
nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?
Ngô
Công Đức cũng đã sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân
trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đã mở mắt ra,
và té ngửa hết, nhưng đã muộn cho một cuộc đời.
Tại
sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản
Thứ
nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.
Thứ
hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam còn căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi
đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con,
cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như
tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài Gòn GP thì còn non trẻ, chờ cho đến khi
thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, trình diễn màn lừa
bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng,
để cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành
gia tăng lên cao, thì ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc đời
nịnh bợ.
2.5.
Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”
Ở
miền Trung thì nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng, Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn
Ngăn, Trần Vàng Sao, Võ Quế…
Hoàng
Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí
trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ.
Ở
miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô
Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích
Trí Quang, Nhất Hạnh.
2.6.
Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo
chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ ba”
gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu
tướng lãnh, có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hoà bình, nổi bật nhất là các nhân
vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận,
Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ,
ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành
phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.
Mặt
Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra
đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn
Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni
sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lý
Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta
đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với
khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. Hình thức biểu
tình rất sáng tạo, biểu tình có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu tình “xa luân chiến”,
không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe
quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào thì công khai, nhưng ra
báo thì bí mật. Công khai thì có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện
tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong
quần chúng.
Mặt
Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị
trường.
Tổ
chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát chẩn”.
Ni
sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn
Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch
UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy viên TW MTTQ/VN.
Bọn
cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo,
ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.
3*
Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên
tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người
thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của
37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch
Hội đồng nhân dân Sài Gòn sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm
Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
3.1.
Dân biểu Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn
Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài Gòn có những cuộc biểu tình mà tôi và
những người khác đã tổ chức rất công phu như “phong trào cứu đói”, “ký giả đi
ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu tình tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần
chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ ba”.
“Quê
ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học,
văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là một dân biểu đối lập,
thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.
Sau
1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân.
Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc.
3.2.
Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau
năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm
việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ văn Kiệt cho biết : Hắn là
người Cộng Sản mà không có đảng” (Il est Communist sans party)
3.2.1.
Đinh Văn Đệ là lính VNCVH
Tờ
báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh
văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức
kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận (1964-1967).
Năm
1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện.
Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp.
Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng
Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh
Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong lòng tình yêu nước
thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính
thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung
thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh.
Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh
Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ
nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2.
Người có công xây dựng gián điệp U 4
Năm
1969, danh sách điệp viên của tình báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên
mới, Đinh Văn Đệ, bí số U 4.
Người
có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U 4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn
Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng
tình báo T4 của Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, còn
gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.
Năm
1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe
riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và
tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực
mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy
Ban Quốc Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức trở thành một gián điệp của
Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc phòng Tình báo mật danh J.22 của Cục R
(còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên
tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22
Đinh Văn Đệ kể những
chiến công như sau:
1).
Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau
khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết
địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm
vụ trả lời câu hỏi nầy.
Trước
hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Phòng ra điều trần trước
Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?
Tại
buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì bị chất vấn sôi nổi,
tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế nầy vất vả lắm, vậy
Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp
các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Phòng Hành Quân,
thì gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: “Đại ca đừng
lo. Ai lại dại gì kéo quân đi lấy lại nơi mà mình phòng thủ đã bị thất bại. Tôi
sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.
Tôi
báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đã ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta
tránh được thiệt hại.
2).
Trung Ương Cục ở đâu?
Trung
Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban
Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN
do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.
Ban
An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài Gòn Gia Định do Mười Hương phụ trách.
TWCMN
hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?
Tôi
gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban
QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho
Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành
lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát
(SĐ 5 đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết
rõ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời
và báo cáo về Cục R.
3).
Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi
tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, vì Thiệu ngoan cố, cố
chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với các cơ quan và chính
khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ làm thế nào để vận động xin viện trợ mà
kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên
của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với
cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi
là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài Gòn.
Với
mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình ảnh của người lính VNCH
không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra
khỏi chiến trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm gì.
Khi
tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về,
tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ có quyết định sau”. Nghe
vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ cuộc”.
Theo
chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đã đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt
nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.
Năm
1972, tình báo Hà Nội đã nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở
các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn nhận những khoản viện trợ
không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program Law), thương mại
hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng
cho quân sự.
Sau
khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh
Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông
qua một nữ tình báo giao liên.
Đinh
Văn Đệ hiện sống ở Sài Gòn vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh
đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.
Có
một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu lòi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung
thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản
bội mà còn cái gì gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?
4).
Sinh viên nằm vùng
4.1.
Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh
Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng,
Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên,
Trương Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.
4.2.
Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia
Phan
Công Trình, Nguyễn Đình Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh, Lê
Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy,
Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc
Khoách.
4.3.
Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1.
Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh
Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Trước 1975 là một
đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp
y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.
Trở
về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ
Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với
những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao
cấp, có tiếng tâm của Sài Gòn.
4.3.2.
Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ
Con
đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, vì thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan
điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không còn được áp dụng trong chế
độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vở
mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được
lòng đảng vì khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.
Đã
vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lãnh án đã
đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.
Thế
là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đã khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên
năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách phòng mạch miễn
phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu
sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.
Mở
phòng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng
có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin
tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu tình, đấu
tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng
cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một
bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của
CNCS đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời,
chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu tan.
Hình ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đã chấm
dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mõi”.
Kể
ra ông trời cũng có con mắt.
5.
Thành Đoàn Cộng Sản Sài Gòn Gia Định lộng hành
Thành
Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt động
trong nội thành Sài Gòn.
5.1.
Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày
28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành
lang trường Luật Sài Gòn.
Ban
ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là
người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối
năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một
giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì một tên móc súng bắn liền 3 phát
vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu
đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ
thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.
Lý
do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật
Thành
Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:
Một
là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia
Hai
là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đã
thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV
trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đã thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành
Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tại Trung Tâm
Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử nầy, khi
thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lý Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn
SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả
bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang
21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị
thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:
Một
là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật
Hai
là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật
Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ
có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức nầy
không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.
Quyết
định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.
5.2.
Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông
Ngày
10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê
Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia
Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu
thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh
T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.
Sau
ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và
rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý do giết GS Nguyễn Văn
Bông như sau: “Tin tình báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng vì
chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức
rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí
mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.
Đến
tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà
báo chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích”
nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đã
theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày
30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đã giới
thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada
theo diện đoàn tụ gia đình.
Phu
nhân của GS Bông có lẻ đã biết tên tòng phạm nầy.
Trong
phỏng vấn của đài RFA, ký giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đã hơn 40 năm, những
nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư
lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ
quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà
năm xưa. Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Vũ Quang
Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm
lòng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài
việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn còn ném lựu đạn M-26 vào xe của BS
Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.
Hai
tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, bị bắn
chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ
Ngã Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên
cạnh Đại học xá Minh Mạng.
6*
Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1.
Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
Trong
bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh
hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.
Năm
1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt
nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông
Ngòi, Mỷ Tho.
Năm
1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, vì sau cuộc hành quân, xác
VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí chống Cộng.
Trong
những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em
xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di tản, đương sự quyết định ở lại để
góp phần xây dựng quê hương.
Trình
diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.
Hai
năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu
tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2.
Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng
Do
được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở
không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đã
biết rõ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh
nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn
Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.
Anh
ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù,
đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở
Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).
Điều
kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia
đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô là, và kèm thao
một số điều kiện…
“Lẽ
tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến “những
điều kiện khác…”.
Sau
đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó
khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn phòng ở khách
sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết, ông Phương đang Hoa
Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những bãi đáp đổ quân, những vị trí tấn
công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân báo VC giải mã từ cơ quan đầu
mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.
Ngày
30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đã dẫn trung tá Nguyễn Văn
Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận
địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đã lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.
Phan
Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển hình như
Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đã đi
theo diện ghép với những gia đình HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng
người Việt hải ngoại”.
Ngoài
những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, còn có 1 tên vô cùng lợi
hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa
tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy
vào cứu nguy hay không?
Giải
đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ
sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến
tranh VN coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la, còn mọi việc
khác thì tùy theo quý ngài định liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn
Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy
mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc – Táo
bạo – Chắc thắng”.
8*
Kết
Đem
tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào tình trạng
của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại,
thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước.
Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm
vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn chúng là đã góp phần đưa
dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.
Trăm
năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Trúc
Giang
--------------------------
No comments:
Post a Comment