Về
phương diện lịch sử người Trung Hoa coi nước họ như bao trùm cả một vùng chịu
ảnh hưởng của văn hóa Khổng-Mạnh gồm các nước Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản và
quần đảo RyuKyu.
Trong nước họ coi mình là chủ của các vùng đất Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng,
Uighurs và Thổ. Ngoài nước họ tự coi là chúa tể của tất cả những bộ lạc chịu
thần phục vua Tầu.
Ngày
nay, đối với họ nền văn minh Trung Quốc (Sinic Civilization) cũng bao gồm những
lãnh thổ tương tự, nghĩa là một trung tâm người Hán cộng thêm Tây Tạng, Tân
Cương, Hong Kong. Macao, Đài Loan, Tân Gia Ba, Thái Lan, Việt Nam, Mã Lai Á,
Nam Dương, Phi Luật Tân và Nam Bắc Triều Tiên.
Trong
Chiến Tranh Lạnh, sau khi chia rẽ với Liên Xô vào đầu thập niên 1960, Trung
Quốc tự coi mình như đại diện cho Thế Giới Thứ Ba. Đến đầu thập niên 1970, để
cô lập Liên Xô Bắc Kinh ngả theo Hoa Thịnh Đốn. Sau khi Liên Xô sụp đổ, dưới
con mắt của Hoa Kỳ “lá bài Trung Quốc” mất dần giá trị nên Bắc Kinh phải đều
chỉnh lại vai trò của mình trên bàn cờ quốc tế.
Sự
điều chỉnh nói trên nhằm hai mục đích. Thứ nhất, đại diện cho văn hóa Trung
Quốc để thu phục dưới trướng tất cả những quốc gia nào có cùng một nền văn hóa.
Thứ hai, nổi lên như quốc gia bá chủ vùng Đông Á.
Chính
phủ cộng sản Bắc Kinh tự coi mình như quốc gia cốt lõi của nền văn minh Trung
Quốc, đại diện cho tất cả những gì liên quan đến nền văn hóa nói trên. Như vậy
có nghĩa là bất cứ ai cùng giống, cùng huyết thống, cùng văn hóa đều được coi
là thuộc nền văn minh Trung Quốc.
Những
thay đổi về kinh tế Á Châu, đặc biệt tại vùng Đông Á là một trong những bước
phát triển quan trọng nhất trong hậu bán thế kỷ 20. Thoạt đầu người ta tưởng sự
thay đổi đó sẽ đem lại hòa bình, nhưng thực tế đã tỏ ra không phải như vậy.
Phát triển kinh tế thật ra đã tạo bất ổn giữa các quốc gia và làm mất quân bình
lực lượng giữa các địa phương. Mậu dịch mang lại lợi tức nhưng lại là đầu mối
của các vụ xung đột.
Sự
phát triển của nền kinh tế Á Châu và sự phục hồi lòng tự tín của các quốc gia
trong vùng đã phá vỡ sự yên ổn của trật tự thế giới vì ba lý do. Thứ nhất, sự
phát triển kinh tế khiến các nước Á Châu có khả năng tăng cường quân lực và
quay lại thực hiện những thứ mà họ đã kông thể thực hiện được trong thời gian
Chiến Tranh Lạnh. Thứ hai, phát triển kinh tế gia tăng cường độ của những vụ
xung đột giữa các nước Á Châu và Tây phương, và giúp cho Á Châu đạt thế thượng
phong trong những vụ xung đột này. Thứ ba, phát triển kinh tế giúp cho Trung
Quốc tạo thêm ảnh hưởng trong vùng và khẳng định lại uy quyền thống trị của họ
ở Á Châu, tạo nên những bè phái ủng hộ hoặc đối lập.
Đông
Á là nơi tập trung của bảy nền văn minh nhân loại: Trung Quốc, Nhật Bản, Chính
Thống Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo, Tây phương và Ấn Độ. Những quốc gia cốt lõi
của bốn trong bẩy nền văn minh đó là: Nhất Bản, Trung Quốc, Nga và Hoa kỳ. Hậu
quả là quan hệ quốc tế ngày nay trở nên phức tạp giống như trong những thời kỳ
của thế giới đa cực.
Chính
vì tính đa cực này mà gần đây đã xảy ra nhiều vụ xung đột phát xuất từ Á Châu,
như chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Trung – Ấn, và chiến tranh Trung-Việt.
Đó là chỉ kể những vụ đã xảy ra. Bên cạnh những vụ này, hiện tại còn những vụ
chưa giải quyết giữa Trung Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân và một số nước khác ở
vùng biển Đông. Với tình hình này khó có thể tiên đoán ai là bạn, ai là thù,
trong vùng đất này của thế giới.
Chiến
tranh lạnh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ
Giữa
thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990 quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng
trở nên đối nghịch. Tại Hoa Lục, Đắng Tiểu Bình và báo chí Trung Quốc bắt đầu
nói đến một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới. Tháng 8 năm 1995 cơ quan ngôn luận chính
thức của nhà nước Trung Quốc tuyên bố quan hệ ngoại giao giữ hai nước đã xuống
tới mức thấp nhất kể từ ngày họ tái lập bang giao vào năm 1979. Tháng 8/1995
Giang Trạch Dân tuyên bố : “Các thế lực thù địch Tây phương không lúc nào ngớt
từ bỏ ý định Tây phương hóa và chia rẽ đất nước chúng ta”.
Thật
ra trong thời gian nói trên thái độ của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc cũng không
được thân thiện lắm. Washington tiếp tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy, bán 100
máy bay F16 cho Đài Loan, gọi Tây Tạng là một nước có chủ quyền bị chiếm đóng,
tố cáo Trung Quốc lạm dụng nhân quyền, không chấp nhận cho Trung Quốc tổ chức
Thế Vận Hội 2000, tái lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, phản đối Trung Quốc bán
vũ khí hóa học cho Iran, bán hỏa tiễn cho Pakistan, dọa trừng phạt kinh tế đối
với Trung Quốc . .
Tại
Trung Quốc, thành phần giữ thái độ thù địch nhất với Hoa Kỳ là nhóm tướng lãnh
quân đội. Nhóm này tạo áp lực thường xuyên lên chính quyền để đòi hỏi phải giữ
thái độ cứng rắn đối với Hoa Thịnh Đốn.
Sư
gia tăng cường độ thù địch giữa hai nước, thật ra, một phần cũng là do những
vấn đề nội bộ. Tại Hoa Kỳ nhóm diều hâu xếp Trung Quốc vào loại kẻ thù thứ hai
của Koa Kỳ sau Iran và chủ chương áp dụng chiến lược bao vây quốc gia này. Tại
Trung Quốc thì tập đoàn lãnh đạo cũng đang cần tạo nên hình ảnh một loại “kẻ
thù mới” để kích thích lòng yêu nước của dân chúng và kéo dài thế chính danh
của Đảng.
Thái
độ thù địch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay căn bản là do sự khác biệt về
văn hóa giữa hai nền văn minh Á Châu và Tây phương. Bên Á Châu đặt nhà nước
trên xã hội và xã hội trên cá nhân. Bên Tây phương, trái lại, chủ trương tự do
bình đẳng, dân chủ, cá nhân chủ nghĩa và hạn chế tối đa quyền hạn của nhà nước.
Nguồn gốc của thù địch là sự khác biệt căn bản về xã hội và văn hóa.
Hoa
Kỳ hy vọng là các chính quyền Á Châu chấp thuận mình là người lãnh đạo cộng
đồng thế giới và áp dụng những giá trị Tây phương cho xã hội của họ. Trong khi
đó các quốc gia Á Châu chỉ muốn Hoa Kỳ giữ vai trò “người giữ trẻ” chứ không
được là kẻ bắt nạt. Họ muốn được đối xử ngang hàng với các quốc gia Tây phương.
Sự
chấm dứt Chiến Tranh Lạnh đã làm gia tăng ảnh hưởng qua lại giữa Á Châu và Hoa
Kỳ. Sự lớn mạnh của Trung Quốc đang là một thách thức căn bản cho nước Mỹ. Hiện
nay, tình trạng đối nghịch giữa Mỹ và Trung Quốc bao gồm một số vấn đề rộng
lớn. Ngoái vấn đề kinh tế còn có các vấn đề nhân quyền, Đài Loan, Tây Tạng,
Biển Đông và việc phổ biến võ khí hạt nhân.
Trong
khi sự đối nghịch giữa Hoa kỳ và các nước Á Châu khác chỉ là những đối nghịch
về văn hóa xã hội thì sự đối nghịch với Trung Quốc lại là một đối nghịch về
quyền lực. Trung Quốc không nhìn nhận sự lãnh đạo hay bá quyền của Mỹ đối với
thế giới, trong khi Mỹ không chấp nhận cho Trung Quốc làm bá chủ Á Châu.
Vấn
đề không để cho nước nào làm bá chủ Á Châu trong đó có bán đảo Âu Châu là một
chính sách mà từ lâu Hoa Kỳ đã chủ trương. Để thực hiện chiến lược này Hoa Kỳ
đã tham gia hai cuộc thế chiến và một cuộc chiến tranh lạnh. Lợi ích này của
hiệp chủng quốc đến nay các tổng thống Mỹ vẫn còn tiếp tục bảo vệ.
Sự
xuất hiện của Trung Quốc, như một quyền lực áp đảo tại Đông Á, nếu cứ tiếp tục
sẽ đi ngược lại với quyền lợi của Hoa kỳ. Đối với cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Bắc Kinh
vấn đề quân bình lực lượng ở Á Châu-Thái Bình Dương là một vấn đề có tầm quan
trọng sinh tử.
Tầm
quan trọng của Á Châu-Thái Bình Dương
Với
6 nền văn minh và 18 quốc gia đang phát triển nhanh chóng vùng Á Châu-Thái Bình
Dương có thể đưa ra bất cứ một hình mẫu quan hệ ngoại giao nào giữa các nước
của họ. Họ cũng có thể tạo ra bất cứ một hình mẫu nào về thế quân bình lực
lượng trong vùng với sự tham gia của các đại cường như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Nga hoặc Ấn Độ.
Vào
lúc này hai mẫu hình về quân bình lực lượng có thể nằm trong viễn tượng chính
trị của vùng. Thứ nhất, mẫu hình lưỡng cực giữa Nhật Bản và Trung Quốc, hoặc
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, với một số quốc gia đàn em xếp hàng sau lưng tùy
theo hoàn cảnh thích hợp về lợi ích và văn hóa. Thứ hai, trở về mẫu hình cổ điển
là tất cả các nước đàn em sẽ chịu thần phục một uy quyền trung ương duy nhất là
Bắc Kinh.
Bắc
Kinh đã lợi dụng sự phát triển kinh tế của nước họ để gia tăng tiềm lực quân
sự. Giữa các năm 1988 và 1993 ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã lớn gấp
đôi và tăng 50%/năm. Ngoại trừ những sự đe dọa tại biển Đông, không thấy có đấu
hiệu gì chứng tỏ là Bắc Kinh đang có tham vọng đất đai bằng võ lực. Có nhiều
phần và đúng hơn là Bắc Kinh đang muốn những nước nhỏ trong vùng tôn trọng và
thi hành một số việc sau đây :
- Tôn trọng sự vẹn toàn lãnh thổ của Trung Quốc gồm Tây Tạng, Tân Cương và đảo quốc Đài Loan.
- Chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Nam Hải (tức biển Đông) và chủ quyền trên Mông Cổ.
- Ủng hộ và yểm trợ Trung Quốc trong các vụ tranh chấp với Tây phương về các vấn đề kinh tế, nhân quyền, phổ biến võ khí nguyên tử và một số vấn đề khác.
- Chấp nhận ưu thế quân sự của Trung Quốc trong vùng và không tìm cách phá vỡ ưu thế quân sự đó.
- Ủng hộ các chính sách mậu dịch và đầu tư của Trung Quốc và hợp tác hữu hiệu để làm cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
- Giao phó cho Trung Quốc quyền lãnh đạo và quyền đại diện cho các vấn đề liên quan đến quyền lợi của vùng.
- Không gia nhập những liên minh chống Trung Quốc do Hoa Kỳ,Tây phương hay các nước khác tổ chức.
- Phổ biến rộng rãi việc dùng tiếng Quan Thoại để thay thế tiếng Anh trong việc giao thiệp giữa các nước trong vùng.
Trước
sự trỗi dậy của một cường quốc mới, phản ứng của các quốc gia nhỏ bé hơn thường
xuất hiện dưới một trong hai thái độ sau đây: một là, tìm đồng minh mới để bao
vây cường quốc đó và tạo thế quân bình; hai là, ngả về cường quốc mới đó để bảo
vệ những quyền lợi thiết yếu của mình. Theo kinh nghiệm của lịch sử thì tìm
đồng minh mới là phương cách bảo đảm nhất và được nhiều quốc gia lựa chọn. Sở
dĩ như vậy là vì ngả theo phe mới đòi hỏi một sự tin tưởng lẫn nhau ở một mức
độ phải được coi là chắc chắn và sự thể này thường ít khi thực hiện được.
Nếu
trong vài thập kỷ nữa Trung Quốc có thể giữ cho kinh tế phát triển liên tục
theo cấp độ hiện nay và giữ cho nội tình chính trị ổn định như lúc này thì rất
có thể Trung Quốc sẽ bước vào vị thế bá quyền ở Á Châu. Còn về phần mình, nếu
Hoa Kỳ không muốn thấy hiện tượng này trở thành sự thật thì sẽ phải chuẩn bị
sẵn sàng cho một chiến lược mới. Trong trường hợp Hoa Kỳ không có thái độ và
hành động cương quyết trước tiến trình đang thay đổi này thì có thể tiên đoán
được là các nước trong vùng sẽ ngả theo Trung Quốc.
Từ
sau Chiến Tranh Lạnh, hành động làm đẹp lòng Trung Quốc đã thấy nổi lên tại một
vài nước trong vùng. Ngoài Bắc Triều Tiên và Việt Nam là hai nước đã quy phục
Bắc Kinh ngay từ khi Liên Xô có dấu hiệu sụp đổ thì sau khi Chiến Tranh Lạnh
chấm dứt một vài nước khác cũng đã có thái độ lạnh nhạt với Hoa Kỳ để khỏi làm
mất lòng Trung Quốc.
Phi
Luật Tân đã đóng cửa căn cứ quân sự tại Subic Bay không cho Hoa Kỳ mướn lâu hơn
nữa. Căn cứ Okinawa cũng bị dân Mhật biểu tình phản đối. Năm 1994, Thái Lan, Mã
Lai Á và Nam Dương không đồng ý cho tàu chiến của Mỹ có nhiệm vụ tiếp liệu hoạt
động trong vùng biển của họ.
Tổ
chức ASEAN trong phiên họp đầu tiên, theo lời yêu cầu của Trung Quốc, đã không
đưa vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa vào nghị trình. Năm 1995 khi Bắc
Kinh chiếm đóng mỏm đá Mischief Reef của Phi Luật Tân cũng không thấy quốc gia
nào lên tiếng phản đối. Kíp đến năm 1995-1996, khi Đài Loan bị bắn phá và đe
dọa thì tất cả các quốc gia trong vùng đều đã giữ một sự im lậng đồng lõa, làm
như không nghe thấy tiếng súng và không hề hay biết gì cả.
Sư
trỗi dậy của Trung Quốc cũng là một thách thức quan trọng đối với Nhật Bản.
Nhìn vào lịch sử của nước này ta thấy rằng lúc nào Nhật Bản cũng tìm cách liên
kết với những thế lực mạnh nhất hoàn cầu. Trong thập niên 1950 Nhật Bản đã đồng
minh với Hoa Kỳ để lợi dụng chiếc dù nguyên tử. Tuy nhiên, nếu ngày nay Hoa Kỳ
không còn khả năng đó nữa, hoặc nếu sự va chạm với Trung Quốc có thể làm tổn
hại đến kinh tế hay đưa đến chiến tranh, thì chắc chắn Tokyo sẽ xét lại vấn đề.
Nhiều
người cho rằng tương lai của Trung Quốc sẽ giống như quá khứ của xứ này. Nghĩa
là Trung Quốc sẽ phải lựa chọn giữa ổn định và chiến tranh. Trái banh đang ở
trên sân chơi của Trung Quốc. Điều quan trọng là Bắc Kinh không nên quên rằng,
mặc dù Hoa Kỳ và các cường Quốc Tây phương rất ưa chuộng hòa bình nhưng lúc nào
họ cũng sẵn sàng chấp nhận chiến tranh. Thời kỳ mà các cường quốc Tây phương có
thể ăn hiếp Trung Quốc đã chấm dứt rồi. Trung Quốc rồi đây sẽ có thể lấy lại vị
thế bá chủ ớ Á Châu với điều kiện là đừng để cho Á Châu rối loạn.
Nguyễn
Cao Quyền
Tháng
10 năm 2014
-------------------------------
Sự
bành trường chủ nghĩa tư bãn và suy thoái môi trường ở Trung Quốc, Việt Nam và
Ấn Độ: Capitalist
Expansion and the Decline of Common Property Ecosystems in China,Vietnam and
India
(Development and Change July 2014)
Ngòi
nổ ở Biển Đông:
Flashpoint
in the South China Sea (Bulletin of the Atomic Scientists 12-10-14)
Năm
nơi mà Thế Chiến III có thể bắt đầu:
5
Places Where World War Three Could Break Out (National Interest
15-10-14)
No comments:
Post a Comment