Saturday, December 11, 2010

ĐÃ CÓ NẤM MỒ (thơ Nguyễn Thị Thanh Dương)

Đã Có Nấm Mồ
thơ Nguyễn Thị Thanh Dương

cảm xúc sau khi đọc bài viết : Không Một Nấm Mồ cuả Huy Phương.

Không một nấm mồ từ sau cuộc chiến,
Người lính bỏ mình thua trận thương đau,
Bãi biển Thuận An  có sóng bạc đầu,
Vành tang trắng vĩnh biệt người từ đó.

                   Anh ơi, đời lính vào ra sinh tử,
                   Nhưng phút tử sinh sao qúa ngậm ngùi,
                   Người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi,
                   Buông vũ khí trên con đường tuyệt vọng

Quốc lộ 7B xác người chồng chất,
Từ Pleiku về duyên hải để vào Nam,
Những xác người trên bãi biển Thuận An,
Những bãi biển miền Trung đầy máu lệ.

                   Cuối tháng Ba, năm bảy lăm. Như thế,
                   Vợ mất chồng, cha mẹ lạc tin con,
                   Vẫn đợi chờ, vẫn hy vọng mong manh,
                    Dù cả Miền Nam đang cơn hấp hối.

Bao nhiêu năm qua, bao hồn oan trái,
Chưa một lần được ấm áp khói hương,
Từ mẹ cha, từ anh chị, vợ con…
Mồ tập thể dân Thuận An chôn vội.

                       Hôm nay  ngôi mồ được xây cất lại,
                       Cho 152 người lính Miền Nam,
                       Đã bỏ mình trên bãi biển Thuận An,
                       Đã ngày đêm nằm đây nghe tiếng sóng.

Nhưng có lúc sóng vô tình tàn nhẫn,
Hay trong những cơn bão lụt tràn bờ,
Cuốn hài cốt người trôi lạc biển xa,
Hồn lênh đênh nhớ nhà xưa, quê cũ.

                       Hôm nay lăng mộ cho hồn yên nghỉ,
                       Có người thân đến thắp nén hương buồn,
                       Cám ơn người dân ở thôn An Dương,
                       Quận Phú Vang tỉnh Thừa Thiên, Huế.
             Nguyễn Thị Thanh Dương
.
.
.
Huy Phương, tạp ghi
Saturday, December 04, 2010

Mới đây việc đồng bào thôn An Dương thuộc quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên đã giúp cải táng và xây lăng mộ cho 152 quân nhân VNCH bỏ mình trên bãi biển Thuận An vào những ngày cuối tháng 3, 1975, đã gây lên niềm đau xót mà tưởng chừng như 35 năm nay đã ngủ yên trong quên lãng, không còn ai nhớ đến.

Chiến tranh đã qua rồi, không chỉ một vài chục năm ngắn ngủi, mà đã một thời gian quá dài. Những đứa trẻ mới lớn lên không biết gì quá khứ, những ông già đã qua đời ở ngoài quê hương, ngậm ngùi vì những giấc mộng tàn phai. Ngày nay những hố bom đã được san bằng, đồn lũy đã mất dấu dành cho những nương khoai, trận địa ngày trước máu xương đã đem màu mỡ cho ruộng đồng xanh ngát.
Nhưng có những cánh rừng chỉ còn trơ gốc, có những con sông đã ngừng chảy, biển xưa phải chăng nay là nương dâu. Ngày nay, có những đô thị mới mọc lên, những chốn ăn chơi, giải trí mới mở ra, những khách sạn cao tầng vươn cao trong không gian như thách đố với nỗi nghèo khó vẫn còn tồn tại ở sát mặt đất.
Những người ra đi đã trở về vui chơi, đi suốt chiều dài của đất nước, quên hết chiều dài khổ đau của trận chiến mà cha ông họ đã đóng góp máu xương.
Quá khứ phải chăng đã bị chôn vùi, chiến tranh phải chăng đã không còn ai nhớ đến. Không, những nghĩa trang liệt sĩ bây giờ đã có mặt khắp nơi, bia mộ khang trang, gọi là để nhắc nhở những người đã hy sinh trong cuộc chiến tàn khốc trên quê hương kéo dài hơn ba mươi năm. Bây giờ, “khi đất nước tôi thanh bình, mẹ già lên núi tìm xương con mình” (TCS).
Nhưng không còn gì cho những người thất trận và đồng bào trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Bao nhiêu người đã bỏ mình trên quốc lộ 7B trên đường rút về duyên hải từ Pleiku, bao nhiêu người đã chết trên những bãi biển miền Trung trong cơn tuyệt vọng tìm con đường sống về Nam. Sau khi đất nước ngưng tiếng súng, người ta kêu gọi những người miền Nam đang chiến đấu buông súng, nhưng thực chất tại nhiều địa phương, nhiều cuộc trả thù đã xẩy ra, nhiều nhân viên đảng phái, ngành tình báo, cảnh sát đã bị đưa đi thủ tiêu. Ngay cả với nhiều toán chiến sĩ Biệt Cách Dù 81 ra đầu hàng cũng bị bắn và chôn vùi trong những giếng cạn trại địa phận Long Thành. Bao nhiêu năm qua, tội ác được giấu nhẹm, trong nước không ai dám lên tiếng, không ai dám tiết lộ tin tức cho thân nhân.
Tất cả đều bị vùi dập với đất cát, cỏ cây, qua thời gian, nắng gió, xương tàn cốt mục tan nát theo bùn đất. Ai còn nhớ đến họ, phải chăng người mẹ trước khi qua đời, vẫn còn mang nỗi đau về tin tức một đứa con ba mươi lăm năm nay biệt mù, phải chăng chỉ còn là di ảnh đã ố vàng của một người chồng trên bàn thờ, để nói với đàn con đó là người cha thuở trước.

Không bia mộ, không dấu vết, lặng lẽ, phai tàn và quên lãng.
Những người dân làng trên bãi biển Thuận An đã âm thầm chôn cất những người lính, người dân miền Nam nằm lại trên bãi biển, hay từ cơn sóng biển đưa vào, trong cơn vội vã, thương xót mà không hề bộc lộ. Rồi cơn sóng biển dập vùi, bão lụt tràn bờ, kéo xương cốt những người này trả lại cho trùng dương. Tưởng chừng những linh hồn uổng tử, oan khuất theo cơn gió giật, réo gọi, rên xiết trên những hàng dương oằn mình, run rẩy.
Trên quê hương chúng ta có bao nhiêu nấm mồ tập thể như thế và vì tình người, có bao giờ những người thắng trận nghĩ đến việc khuyến khích dân chúng tại những nơi trận địa, cải táng những thi hài này để tìm ra những tin tức cho những gia đình đã mất con, mất chồng trong cuộc chiến. Câu chuyện này, nếu làm trong thời gian vài ba năm sau khi cuộc chiến mới chấm dứt, khi thịt chưa nát, xương chưa tan, khi còn những dấu tích, chúng ta có thể tìm ra căn cước của những người chết, để giao về cho những gia đình ly tán mất mát, thì đâu có lâm vào cảnh muộn màng như thế. Nhưng điều đó đã không xẩy ra. Những danh từ “bỏ qua quá khứ,” “hòa giải dân tộc,” “xóa bỏ hận thù” chỉ là những câu khẩu hiệu chỉ để nói mua vui. Ngay như chuyện Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, đã có bao nhiêu lời hứa hẹn, đã có bao nhiêu tổ chức ở hải ngoại về nước hy vọng sẽ góp công, góp của để giữ gìn lại những hài cốt của các chiến sĩ miền Nam ngày trước, nhưng cuối cùng chỉ nhận lấy sự hụt hẫng vì những lời hứa suông, giả dối. Ngày nay nghĩa trang này rơi vào cảnh điêu tàn, hoang phế, đất nghĩa trang được “dân sự hóa,” không còn được một tên gọi, không được tôn trọng như là một di tích của lịch sử, mặc cho gió dập mưa vùi.

Rồi thời gian sẽ xóa hết dấu vết.
Chúng ta không có hy vọng gì về một đất nước văn minh, nhân ái để có một nghĩa trang chôn cất người lính của cả hai miền, dù là bên thắng bên thua, nhưng ít ra đối với người thắng trận phải có chút lòng nhân, không chỉ có thái độ trả thù đối với những người bại trận còn sống mà còn đối với những người đã chết. Chính quyền Cộng Sản ngày nay đã quay lưng đi với nỗi đau khổ của đại đa số dân chúng, nên chúng ta cũng hiểu rằng rất khó để kêu gọi tấm lòng nhân đối với những người đã chết. Khi chế độ mới có quyền lực trong tay, họ muốn làm những điều ác để bảo vệ chế độ hơn là lấy điều nhân nghĩa để lo cho dân.
Qua các đợt cứu trợ cùng với các tổ chức đang hướng về quê hương, vì hải ngoại đã thương xót mủi lòng khi nghĩ đến cảnh khổ của đồng bào ruột thịt ở trong nước, mà ngày nay những người bỏ nước ra đi, còn có tấm lòng nghĩ đến những người đã nằm lại, qua các công cuộc đi tìm hài cốt hay tu sửa bia mộ cho những người chiến sĩ VNCH. Qua tin tức, phim ảnh chúng ta đã có dịp thấy cảnh đào xới truy tìm hài cốt của những người lính Mỹ chết tại Việt Nam, với sự yểm trợ tối đa của chính quyền, huy động nhân công đông đảo, phương tiện cơ giới để đào sâu, sàng sảy để tìm những mẫu xương cốt. Lại thấy cảnh bốc mộ của đồng bào đối với hài cốt của những người lính miền Nam được tiến hành với những phương tiện thô sơ, góp nhặt những đốt xương, những chiếc răng còn lại mà cảm thấy đau lòng, xót xa.
Ba mươi lăm năm, một thời gian quá dài. Những bậc sinh thành đã không còn sống để đợi chờ tin con. Những góa phụ đã mòn mỏi héo hon. Ký ức của những đứa con đã không còn chút dấu vết của người cha thời trận mạc. Tất cả đều đã mịt mờ trong quá khứ. Những người lính chiến không bao giờ trở về, thân xác theo cát bụi về với hư vô.
Chiến tranh đã tàn khốc ác độc, mà giữa con người với con người cũng chẳng có lòng thương xót, ba mươi lăm năm rồi vẫn còn đối với nhau như kẻ thù không đội trời chung.
Nếu không như thế, chính phủ CSVN đã bảo trì, giữ gìn, tu bổ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, theo ý nghĩa “không có người thắng, kẻ thua.” Nếu không như thế, chính phủ CSVN đã có chính sách truy tìm, khuyến khích dân chúng phát giác, khai quật những mồ chôn tập thể, sau ngày tàn cuộc chiến để trả hài cốt về cho những người mẹ mất con, những người vợ góa chồng, những đứa con không cha.
Báo chí trong nước không được phép loan tin những chuyện liên hệ đến chế độ cũ hay hình ảnh người lính VNCH, do đó việc thông tin bị hạn chế, gia đình không thể nào tìm ra những người mất tích trong cuộc chiến. Ðó là chính sách bất nhân của những con tim vô cảm.
.
.
.
Huy Phương/Người Việt
Friday, December 10, 2010

Người về trên chiếc thẻ bài

WESTMINSTER - Một quả phụ Việt Nam Cộng Hòa, biệt tin chồng trong suốt 35 năm từ những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, nay, nhận được tin tức từ nước ngoài truyền về, người quả phụ ấy tìm lại được mộ chồng, chỉ cách căn nhà đang ở có... 15 km.

Lăng mộ trong khu nghĩa trang mới, nơi người dân An Dương, Phú Vang, Huế, cải táng 132 hài cốt tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng trong những ngày cuối cùng cuộc chiến, tháng 3, 1975, ở Thừa Thiên. (Hình: Huy Phương cung cấp)

Câu chuyện bắt đầu từ tin tức về việc người dân An Dương, quận Phú Vang, Huế, gần đây cải táng 132 hài cốt tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng 3, 1975.

... 35 năm trước
Sáng ngày 21 tháng 3, 1975, trong cơn hỗn loạn của thành phố Huế, khi quân đội rút về phía Nam và dân chúng gánh gồng chạy loạn, bà Lê Thị Tịnh đem các con chạy vào Ðà Nẵng. Ngang qua Dạ Lê, bà ghé thăm người chồng, Thượng Sĩ Ðinh Văn Kiếm, trưởng Tổng Ðài Siêu Tần Số, thuộc Tiểu Ðoàn I Truyền Tin, Sư Ðoàn I Bộ Binh (SÐ 1 BB).
Tại đây, Thượng Sĩ Kiếm nói với vợ, hãy “yên tâm đem các con đi trước, anh sẽ theo đơn vị đi sau.”
Họ chia tay, không biết rằng, đó là lần cuối cùng gặp mặt...
Sau ngày Sài Gòn thất thủ, nhiều người chạy giặc vào Sài Gòn đã bắt đầu trở về. Bà Tịnh vẫn biệt tin chồng. Qua nghe ngóng tin tức, bà biết “nhiều anh em Sư Ðoàn 1BB bỏ xác tại bãi biển Thuận An trong lúc chờ tàu vào cứu nạn.” Nghe theo lời khuyên, bà Tịnh nhiều lần cố tìm về bãi biển này để dò la tin tức.
Mấy ngày đầu, đường sá bị phong tỏa. Thời gian sau, dấu vết nhạt dần, rồi không còn nữa. Không ai dám hé môi tiết lộ một lời.
Lòng bà Tịnh nhen nhúm chỉ một niềm hy vọng: “Biết đâu anh lại có cơ hội lên tàu di tản sang Mỹ.”
Bà Tịnh chờ đợi!
Một năm, rồi 2 năm, rồi 5 năm trôi qua, tin chồng vẫn biệt mù.
Bà Tịnh, như hầu hết những người vợ lính cam phận, tần tảo nuôi bốn đứa con trai và một con gái khôn lớn. Nỗi buồn nguôi ngoai cùng ngày tháng.
Người con trai đầu của bà Tịnh, tên Khuê, năm 1980, mới 12 tuổi, đã ra đời vất vả kiếm cơm, với một chiếc bình nhôm và cái ca nhựa, bán nước trà theo những chuyến xe lửa Bắc-Nam mỗi ngày ghé qua ga Huế hay bên chợ Ðông Ba.
Một buổi tối, bà Tịnh không thấy con về. Hai ngày sau, bà lên ga Huế, ra chợ Ðông Ba, hỏi thăm đám bạn bè của con. Không một tin tức.
“Thằng Khuê” mất biệt như cha nó 5 năm về trước, không một dấu vết. Bà Tịnh không biết trình báo với ai, cũng chẳng biết phải đi đâu để tìm con. “Thằng Khuê,” còn sống hay đã chết, mất xác nơi đâu?

Bỗng đâu tin tức tràn về
Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến là 35 năm bà Tịnh sống trong chờ đợi, niềm chờ đợi tuyệt vọng về tin tức của chồng và đứa con trai đầu lòng.
Các con bà Tịnh nay đã có gia đình. Bà Tịnh - người mẹ ngày xưa - nay là bà nội, bà ngoại của một đàn cháu đông đúc. Mỗi lần thắp nén hương trên bàn thờ chồng là mỗi lần bà thầm nghĩ: “Không biết anh chết ở đâu, xác bỏ nơi nào.”
Bà đâu có ngờ, chồng bà vẫn ở bên bà đấy thôi. “Anh nằm gần chị đây thôi, trên bãi biển Thuận An, cách nhà chỉ 15 cây số.”
Chỉ 15 cây số, nhưng bà không hề hay biết, trong quảng thời gian dài hơn nửa đời bà, 35 năm!
Một hôm, người em của chồng bà, là Ðinh Văn Xuyên, một cựu quân nhân thuộc Thiết Ðoàn 10 Kỵ Binh, hiện cư ngụ tại Texas, Hoa Kỳ, gọi về, loan tin rằng, qua báo chí, người ta tìm thấy dấu tích của ông Kiếm tại bãi biển Thuận An trong một lần bốc mộ, nhờ tấm thẻ bài mang tên người xấu số.
Di hài Thượng Sĩ Kiếm được dân làng An Dương cải táng vào trung tuần tháng 12 vừa rồi. Tin tức từ trong nước ra được hải ngoại, nay lại bay về quê hương. Hai vợ chồng “ở rất gần nhau,” mà tin lại loan đi hàng vạn dặm mới về đến người cô phụ.
Bà Tịnh, ngay lập tức, cùng các con và người em gái của ông Ðinh Văn Kiếm, đem lễ vật về lạy trước nấm mộ tập thể, trong đó có chồng mình, cha mình, anh mình.
Trong tấm mồ tập thể ấy, Thượng Sĩ Ðinh Văn Kiếm đã yên nghỉ cùng anh em đồng đội và đồng bào của ông trong những ngày cuối của cuộc chiến.
Gia đình ông Kiếm, gồm các em của ông, hiện đang sống tại hải ngoại, nói sẽ giúp phương tiện để đưa ông về nằm chung với phần mộ của gia đình. Còn tạm thời, ông vẫn nằm bên cạnh bạn bè, chiến hữu - những người đã 35 năm chung một nấm mồ xiêu lạc, oan khuất trên đường chạy loạn.

----------------------------------

Cũng nhờ tên tuổi trên một chiếc thẻ bài còn lại, ông Trịnh Quốc Thuận, ở Maryland, Hoa Kỳ, nhận ra người bà con cô cậu ruột của mình, là ông Trần Văn Ðược, sinh năm 1954, thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Gia đình đã được báo tin ông Thuận bỏ mình tại bãi biển Thuận An hồi tháng 3, 1975, nhưng không tìm ra hài cốt. Chuyện kể rằng, hồi tháng 4, 1975, khi Sài Gòn chưa thất thủ, một chiến hữu cùng trung đội với ông, sống sót về được Sài Gòn, ghé qua, báo tin cho gia đình đồng đội, rằng ông Ðược đã chết trên bãi biển Thuận An. Trên đường rút lui, trước khi lên tàu, Trần Văn Ðược chết vì trúng mảnh đạn pháo kích của địch quân.
.
.
.

No comments: