Trần Thành Nam
30/12/2010
Trong bài Tập đoàn kinh tế Nhà nước: từ đâu ra và đi về đâu? tôi đã trả lời hai câu hỏi đã nêu ra, rằng tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam hình thành theo và từ mô hình các tổng công ty đầu ngành của các nước xã hội chủ nghĩa cũ vốn đã làm các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đó sụp đổ, nên cũng sẽ làm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam sụp đổ.
Với bài này tôi muốn phân tích tiếp, tại sao mô hình kinh tế này sẽ sụp đổ ở Việt Nam và nếu thế thì nó sẽ sụp đổ như thế nào? Liệu có cách nào “tái cấu trúc” chúng để tránh sự sụp đổ được báo trước đó không?
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế Nhà nước năm 2010 chỉ góp 21% GDP nhưng chiếm trên 40% vốn đầu tư quốc gia và chỉ tạo công việc cho chưa tới 4% lực lượng lao động. Đó là các con số của Chính phủ. Còn theo ước tính của các nhà quan sát kinh tế độc lập thì, nếu tính cả các đơn vị làm kinh tế của Đảng, của các đoàn thể Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, của các lực lượng vũ trang và an ninh, kinh tế Nhà nước tại Việt Nam chiếm đến trên 80% nguồn vốn đầu tư của quốc gia [?] và vì thế nó phải được coi là lực lượng kinh tế chủ đạo.
Nhìn sơ qua ai cũng thấy ngay tính không hiệu quả trầm trọng đến vô lý của mô hình kinh tế Nhà nước. Hậu quả kinh tế thua lỗ thất thoát sẽ làm nó phá sản và chính những người hỗ trợ nó là Chính phủ cũng không chịu được và càng không bao biện được. Chính phủ càng bơm nhiều vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, càng mất hết.
Hậu quả thứ hai là đạo đức kinh doanh xấu xa của mô hình kinh tế nhà nước: tính hình thức, sự hoang phí, tệ tham nhũng, nạn báo cáo giả dối, sự vô trách nhiệm tràn lan, sự kém cỏi và kém chất lượng dịch vụ, sự thiếu vắng văn hoá và đạo đức kinh doanh… tất cả tạo nên và làm cho văn hoá kinh doanh và văn hoá xã hội nói chung ngày càng xuống cấp… Càng hô hào thi đua, càng mất văn hoá hơn.
Hai hậu quả trên khi được biểu hiện kết hợp trên diện rộng, mức độ sâu xa, thời hạn lâu dài nhiều năm và trong khắp mọi ngành kinh tế với số lượng đầu tư vật chất lớn… sẽ làm nên tình trạng: về văn hoá thì cả xã hội ghê tởm và căm ghét, về kinh tế thì cả nền kinh tế bị khủng hoảng “vạ lây”, về xã hội thì làm mất hết cơ hội vươn lên cuộc sống giàu có cho đất nước, cuối cùng cả xã hội sẽ phải xoá bỏ mô hình kinh tế nhà nước này.
Tại sao hai hiện tượng “hậu quả” trên sẽ nhất định sẽ xảy ra với mô hình kinh tế nhà nước?
Đó là một phép qui nạp: vì chúng đã và đang xảy ra…, và vì mô hình kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa vốn đã chứa những hạt giống, mầm mống mâu thuẫn sẽ gây đổ vỡ đó là bắt nguồn từ cơ sở triết học và lý thuyết kinh tế sinh ra chúng: lý thuyết kinh tế kế hoạch tập trung xã hội chủ nghĩa! Vâng, cha mẹ tinh thần, hay cái gen gốc, của mô hình kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn là lý thuyết kinh tế kế hoạch tập trung xã hội chủ nghĩa!
Chúng ta lại phải giật lùi một chút đến những năm 50, xem lại về lịch sử hình thành từ đầu các hình thái tổ chức công ty nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung.
Chúng ta (và các nước cựu xã hội chủ nghĩa trước kia) tưởng mình đã cắt đuôi và đoạn tuyệt dứt khoát với lý thuyết kinh tế kế hoạch tập trung từ khi giải tán các Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước từ Trung ương đến địa phương! Không hề! Chúng ta đã chỉ không “làm kế hoạch tập trung” tại Trung ương hay các UBND Tỉnh, mà chỉ “lập” và “giao” chỉ tiêu cho các ngành theo đó tự làm kế hoạch thực hiện, từ Trung ương đến địa phương, mà thôi. Đó chỉ là tự dối chính mình, còn bản chất sự việc vẫn như cũ: các chỉ tiêu vẫn được xác lập từ Trung ương và rồi “phân chia”, “giao” về các địa phương, các đơn vị kinh tế chủ đạo là các tập đoàn kinh tế nhà nước, để họ “làm kế hoạch”. Các kế hoạch đó liệu có thể được chấp nhận nếu làm không theo các chỉ tiêu “trên giao”?
Bước “cải tổ” trên, mà bản chất như một trò lưu manh vặt, từng được ca ngợi như bước tiến lớn về lý luận và lý thuyết của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khắp Âu Á Mỹ! Theo tôi, dù có gọi tên thế nào, hiện nay thành phần kinh tế nhà nước của ta vẫn là kinh tế kế hoạch tập trung.
Yếu tố cơ bản sống còn trong lý thuyết kinh tế kế hoạch tập trung là đại diện và bảo vệ sở hữu nhà nước trong các mô hình kinh tế sản xuất, kinh doanh và phân phối dạng nông trường, công ty, tổng công ty, hợp tác xã mua bán…, đến nay hoàn toàn chưa được Lênin và các lý thuyết gia kinh tế xã hội chủ nghĩa sau ông giải quyết. Đó là, quyền sở hữu toàn bộ tài sản quốc gia đã được tập trung vào sở hữu nhà nước bằng bạo lực cách mạng rồi, làm sao phân chia lại quyền sở hữu nhà nước đó ra cho các đơn vị kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa đây? Thành ra, các công ty Nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ và chưa ở đâu thực chất là một pháp nhân độc lập và có thể sống độc lập pháp lý với chủ của chúng như các công ty tư bản (corporate) được. Ví dụ: nhà nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì các công ty nhà nước lập ra có còn tồn tại được không? Trong khi các công ty tư bản tồn tại pháp lý độc lập vài trăm năm sau khi chủ thành lập ra chúng đã qua đời? Hay: Vinashin có thể độc lập “chết” mà không liên can gì đến Chính phủ Việt Nam không? Không!
Lúc đầu (những năm 50, 60, 70) người ta phân chia quyền đại diện sở hữu Nhà nước theo ngành dọc cùng lúc cho các bộ ngành, Bộ Tài chính, Đảng Cộng sản và các đoàn thể cùng đại diện. Như vậy, trong một công ty hay xí nghiệp xã hội chủ nghĩa luôn luôn có 5-6 thành phần cùng đại diện quyền sở hữu nhà nước đối với các tài sản vật chất: ban giám đốc, kế toán trưởng, bí thư Đảng, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… Bên trên mỗi Công ty cũng có chừng đó các ông chủ sở hữu nhà nước cấp tổng công ty, đến các sở địa phương, rồi các bộ chủ quản, rồi Trung ương…
Hệ thống đại diện sở hữu nhà nước chồng chéo và tầng tầng lớp lớp này đã tự kiểm soát và kiềm chế bớt tham nhũng nhưng hậu quả là người ta chỉ lo bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa (mà vẫn không bảo vệ được khi 5-6 đại diện cùng thông đồng tạo nên những cái gọi là quyền lợi tập thể), nhưng không còn ai lo vì không còn sức, nhiệt huyết và thời gian làm cho tài sản nhà nước đó sinh sôi theo kế hoạch được…
Từ những năm 70,80 và 90, khi các liên hiệp xí nghiệp và tổng công ty toàn ngành hình thành, người ta đã tập trung quyền hành (thực chất là quyền đại diện sở hữu nhà nước) vào hai thành phần chính: giám đốc và đảng uỷ công ty, giai cấp lao động bị loại hẳn khỏi quyền đại diện sở hữu nhà nước hay quyền hành nói chung. Từ đó, các kế toán trưởng chỉ là cái bóng “cánh hẩu” với Đảng và chính quyền – tài chính không thể minh bạch nữa, còn các đoàn thể chỉ là “để làm cảnh” hay “lũ chầu rìa” cho vui xã hội.
Trong công ty hay tổng công ty thì người ta phải trọng tài năng và trình độ chuyên môn để làm việc, trong khi các bí thư đảng cộng sản cơ sở thì thường rất yếu kém mặt này nên thường không có uy tín và quyền lực, do đó các giám đốc tổng công ty luôn có quyền lực tuyệt đối: vừa là đại diện sở hữu nhà nước vừa là người điều hành kinh doanh và chịu trách nhiệm với nhà nước về tài sản nhà nước trong công ty của mình… hay vừa đã bóng, vừa thổi còi cho quân mình đá.
Đại diện sở hữu nhà nước lúc đầu giống như một trách nhiệm trước một ông vua. Nhưng vì ông vua này không tồn tại, không có bóng hình, không hiện ra bao giờ, lại rất dễ lừa, dễ mua chuộc, còn các “đại diện” của vua thì rất tham lam (tiền và “hoa”) và ngu dốt, thích nịnh, thỉnh thoảng đến “cưỡi rượu” xem “hoa”, nên rất dễ điều khiển… Thế là rất nhanh sau đó các giám đốc thấy mình mới chính là vua thật có toàn quyền sinh sát với công ty, số tài sản và con người mình đang quản lý…, họ nhanh chóng trở thành các “vua con”.
Còn tâm lý tham nhũng của các ông “vua con” hình thành từ “đạo đức cộng sản trong sáng” thế này: Các “vua con” chỉ được Nhà nước giao nhiệm vụ bảo toàn tài sản nhà nước thôi vì được “tin cậy”, nhưng thời gian đầu chưa có kinh nghiệm và thường ít tài năng nên thường kinh doanh bị lỗ. Vì mê chiếc ghế “vua con” và không nỡ làm thất vọng cấp trên nên đành báo cáo láo là công ty kinh doanh “huề”, rồi tính sau. Xoay xở vài năm, được nhà nước hỗ trợ đủ điều ưu ái vốn và độc quyền thị trường vì là “lực lượng chủ đạo”, có kinh nghiệm hơn, các “vua con” bắt đầu làm ăn có lãi, nhưng vẫn “phải” báo cáo “huề” để bù lại phần lỗ trước đó đã nỡ giấu nhẹm. Sau đó, việc kinh doanh có lãi tiếp thì các “vua” lại “phải tiếp tục” báo cáo “huề” để dự phòng nhỡ lỗ về sau và cho các “chi phí ngoài luồng” ngày càng tăng cao cho các đại diện “vua trên” và cho chính các “vua trên”… [Có một tình hình phổ biến không kém: Báo cáo lãi để tạm lừa cấp trên – BVN] Số tài sản để ngoài sổ sách để “dự phòng” đó “phải để tạm” trong các tài khoản do người nhà các “vua con” trông hộ ngày càng lớn thì cảm giác tự tin của “vua con” ngày càng lớn… đến một lúc “tự nhiên” “vua con” tin nó là của riêng mình, vì có ai “tranh chấp” đâu? Đó là chưa kể tài sản người ta cứ mang đến cảm ơn lòng tốt của “vua con” trong việc ban phát quyền lợi cho đám “cận thần” và “xin làm cận thần”…
Hiệu quả kinh tế phá hoại, đạo đức tồi tệ, tập trung quyền hành, tham nhũng tràn lan, tổ chức chính trị xã hội mất uy tín và tan rã… đã nhanh chóng làm sụp đổ hệ thống kinh tế rồi hệ thống nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu những năm 80.
Việt Nam từ những năm 90 bắt đầu thí điểm mô hình tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước với sự vô hiệu hoá hoàn toàn các tổ chức Đảng, chỉ để lại “làm vì”. Thay vào đó, Việt Nam áp dụng mô hình hội đồng quản trị để đại diện quyền sở hữu nhà nước, học từ mô hình kinh tế Tư bản thị trường, để kiểm soát Ban giám đốc.
Vẫn có ít nhất vài điều không ổn trong mô hình “thí điểm” này:
Thứ nhất, đây là mô hình được “cải tiến – hà hơi” từ lý thuyết công ty nhà nước xã hội chủ nghĩa và kinh tế kế hoạch tập trung mà châu Âu đề xướng và đã thất bại, đã là xác chết hoàn toàn, nay Việt Nam ta thí điểm “tô vẽ – hà hơi lại xác chết”, mà làm tràn lan khắp các ngành kinh tế, thì thật không khác dựng các thây ma dậy trong khắp mọi nhà!
Thứ hai, việc “tô vẽ – hà hơi xác chết” có phần vụng về: Đại diện sở hữu nhà nước trước kia nằm đông đảo trong từng công ty mà còn không kiểm soát được Ban Giám đốc, nay tách ra và giao cho Hội đồng quản trị đại diện thì phải có Luật đặc biệt tương xứng cho Hội đồng Quản trị như thanh “bảo kiếm” chứ? Thế mà Hội đồng Quản trị đã không có thanh bào kiếm là quyền hành bổ nhiệm Ban Giám đốc, lại cũng chả có luật nào tương xứng nhiệm vụ đại diện sở hữu nhà nước của Hội đồng Quản trị, mà Hội đồng Quản trị lại còn “được” Ban Giám đốc trả lương thì “há miệng mắc quai” hay chủ sở hữu nhà nước bị “làm nhục quốc thể” quá, còn kiểm soát sao được!
Thứ ba, Hội đồng Quản trị giám sát công ty và Ban Giám đốc bằng Luật Doanh nghiệp, là bằng các qui chế và tài liệu báo cáo có tính pháp lý, nhưng ở các tập đoàn và tổng công ty nhà nước Việt Nam việc báo cáo và làm việc giữa Hội đồng Quản trị với Ban Giám đốc lại có tính “nội bộ”, không minh bạch, nên công việc của Hội đồng Quản trị chỉ là hình thức và vô tác dụng. Thực tế ở Việt Nam thường là Chủ tịch Hội đồng Quản trị có quyền “bao cả sân” của Tổng Giám đốc nên coi như đá hai sân; đó là sự bắt đầu của tham nhũng như tôi đã phân tích tâm lý “vua con” ở trên, thậm chí là hiện tượng “hai vua”: Chủ tịch và Tổng Giám đốc chia nhau quyền lực. Kết quả thì vẫn là một: kinh doanh không hiệu quả, tham nhũng, thoái hoá đạo đức…
Thứ tư, đến nay 2010 thì về lý thuyết kinh tế và pháp lý quốc tế, một công ty nhà nước hay tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn không phải một pháp nhân độc lập mà chỉ là một bộ phận phụ thuộc của một pháp nhân khổng lồ là nhà nước mà thôi.
Đến đây, câu hỏi tại sao mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước nhất định sẽ thất bại dường như đã được trả lời: tô vẽ và hà hơi không làm các “xác chết” công ty nhà nước xã hội chủ nghĩa sống thực được.
Dường như, là vì còn một nguyên nhân khách quan nữa sẽ góp phần làm nó thất bại nhanh hơn mà các tổng công ty nhà nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu ngày xưa chưa gặp: đó là nền kinh tế thị trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khác. Sự cạnh tranh này sẽ đẩy các tập đoàn kinh tế nhà nước yếu kém nhất đến phá sản nhanh hơn, và các tập đoàn này sẽ kéo các tập đoàn kinh tế nhà nước khác chết theo vì chúng là bình thông nhau, cùng một chủ. Hiện tượng Vinashin là một báo hiệu “thử nghiệm” cho “cái chết đầu tiên” đó.
Với câu hỏi “Liệu có cách nào tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế nhà nước để chúng thành công?”, câu trả lời của tôi là: Không. Chưa có. Loài người chưa nghĩ ra. Chưa có lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa nào thành công từ năm 1917 đến nay, 93 năm thử nghiệm trên 12 nước và 3 châu lục với khoảng trên ¼ dân số loài người đã tham gia.
Các công ty và tâp đoàn kinh tế nhà nước theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung như nước ta đang “nuôi” vẫn chỉ tiếp tục là những thây ma thí nghiệm “dũng cảm” – thây ma thì sợ gì chết nữa! Chính phủ ta vẫn nói là họ đang tiếp tục làm thí nghiệm đó thôi!? Chỉ có điều cái giá phải trả cho những thí nghiệm này rất đắt, sẽ do nền kinh tế ọp ẹp của ta phải chịu, tức là do dân Việt ta cùng trả thôi mà.
Còn một câu hỏi trong cuối bài trước dường như tôi chưa trả lời, tuy thực ra là đã trả lời ngay rồi, là: “Ai sẽ có lợi khi các tập đoàn kinh tế nhà nước cùng nhau sụp đổ?”
Tôi đã nói: “Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng ĐỔI MÀU SỞ HỮU CHỦ”, không phải như một số báo đăng lại và hiểu nhầm thành: “người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng ĐỔI CHỦ SỞ HỮU”. Ở đây, chủ sở hữu chính của phần lớn các công ty nhà nước phá sản sẽ không thay đổi, họ chỉ đổi màu “áo” của mình thôi. Trước khi công ty sụp đổ họ “mặc áo” màu đỏ – đại diện sở hữu nhà nước –, sau khi công ty sụp đổ họ sẽ ra tay “cứu vớt” mua lại công ty NN thành “của mình”, lại trở thành chủ của công ty đó. Nhưng họ là các nhà tư bản mặc áo vàng, thế thôi, vẫn là họ hay con cháu họ hàng anh em chiến hữu của họ…
Đỏ là màu cách mạng – là máu dân lành. Vàng là vàng, Dân thì vẫn là dân đen…
T. T. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
.
.
.
Trần Thành Nam
Đăng bởi bvnpost on 04/10/2010
Bài sau đây đưa ra quan điểm của cá nhân tác giả, lý giải sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới như là sự thất bại của mô hình tổng công ty nhà nước. Từ đó vụ Vinashin chìm tàu được cho là hệ quả tất yếu của não trạng muốn duy trì mô hình tổng công ty nhà nước của thời “xã hội chủ nghĩa” xưa kia. Tác giả mạnh bạo dưa ra lời tiên tri: “Rồi sẽ đến ngày các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam đồng loạt “chuyển lượng thành chất”, hay đồng loạt sụp đổ, hay sụp đổ theo dây chuyền – anh này kéo anh kia theo. Lúc đó là chúng hoàn thành “sứ mệnh” của mình – làm cho nền kinh tế quốc gia sụp đổ (vì chúng là lực lượng chủ đạo), nhờ có cái gen mà chúng mang theo trong mình từ khi cha sinh mẹ đẻ – cái gen tài năng vừa đá bóng vừa thổi còi.”
Bauxite Việt Nam
----------------------------
Hiện nay hầu như mọi tầng lớp xã hội đều quan tâm sâu sắc đến thực trạng và tương lai của mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước.
Vậy mô hình kinh tế này của Việt Nam sinh ra từ đâu?
Dù là người ủng hộ hay phản đối mô hình này thì đại đa số các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các tổng công ty chuyên ngành và đầu ngành, các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam (xuất thân từ 17 tổng công ty 91 và hơn 80 tổng công ty 90 cũ) đã được sinh ra trên cơ sở chính sách coi lực lượng kinh tế nhà nước là chủ đạo của nền kinh tế quốc gia trong cơ chế thị trường. Đa số cũng cho rằng đó là kết quả từ những cố gắng của chính phủ nhằm xây dựng lực lượng trên theo mô hình các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn và thành công như các keiretsu của Nhật hay các chaebol của Hàn quốc, với hy vọng để chúng có thể cạnh tranh với chính các hình mẫu đó trong nền kinh tế thị trường tương lai.
Khoan hãy nói đến chuyện chúng có cơ hội cạnh tranh được với “cha mẹ nuôi” hay không, mà hãy xem xét lại nguồn gốc sinh ra chúng – có phải là theo các hình mẫu keiretsu hay chaebol hay không, bởi vì điều này vô cùng quan trọng, quyết định việc dự đoán tương lai của chúng.
Theo tôi, chúng ta đã vội vã quên về nguồn gốc sinh ra thực sự của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam hiện nay. Có lý do “chính đáng” cho sự cố tình lảnh tránh hay lãng quên này. Chính sự lãng quên và nhầm lẫn nghiêm trọng về nguồn gốc sinh ra – sự nhầm lẫn về cha sinh mẹ đẻ của mô hình doanh nghiệp này – làm chúng ta luôn tranh cãi nhau về nó, vì không hiểu bản chất thực của mô hình đó, và càng không thể thống nhất trong dự đoán tương lai của nó.
Đó chắc chắn không phải là những đứa con của sự kết hôn giữa kinh tế nhà nước Việt Nam với các ông Chaebol hay các bà Keiretsu trong điều kiện kinh tế thị trường đang toàn cầu hóa. Đó chỉ là báo chí nước ngoài họ gọi so sánh thế và chúng ta ngộ nhận vậy, tưởng thế là hay. Nếu Việt Nam có các keiretsu, có các chaebol thì đích thị chúng ta là rồng rồi còn gì? Thực ra các ông chaebol các bà keiretsu chẳng dính líu gì đến mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam cả.
Để tìm hiểu điều này, chúng ta hãy quay lại ít nhất với nền kinh tế kế hoạch tập trung những năm 50 và 60 của các nước phe XHCN, mà Việt Nam (Miền Bắc) là một. Dù còn non trẻ và gặp nhiều khó khăn về lý luận, chính trị, kinh nghiệm và thực tiễn, nhưng nói chung các nền kinh tế kế hoạch tập trung của các nước XHCN đều đã phát triển khá ngoạn mục, nhanh và đồng đều giai đoạn này. Đó là nhờ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung giai đoạn đầu đã vô tình tách biệt được việc sở hữu và quản lý của nhà nước (thổi còi) ra khỏi nhiệm vụ sản xuất theo những kế hoạch đó (đá bóng) vốn được giao cho rất nhiều các xí nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã và nông trường thực hiện. Việc phân phối kết quả lao động cũng theo kế hoạch và quyền phân phối được tập trung vào trung ương, nên nó cũng vô tình vừa gắn và vừa tách rời hai khu vực với nhau. Trong giai đoạn này, sức sản xuất của con người và cả xã hội được giải phóng tương đối hiệu quả do vấn đề sở hữu phương tiện và thành quả lao động chưa tạo ra những mâu thuẫn xã hội trực tiếp, do người đá bóng (sản xuất) và người thổi còi (quản lý nhà nước) được tách biệt khá rõ ràng ở cấp cơ sở là nơi thực hiện/sản xuất, đều yên tâm (toàn tâm toàn ý) làm tốt công việc của mình. Rất tiếc, sự tăng trưởng này tuy nhanh và mạnh nhưng chỉ thiên về lượng mà không được chú trọng về chất, thiên về hình thức, thiếu nội dung trong mọi khía cạnh cuả nền kinh tế, từ vật chất đến văn hóa, tinh thần, khoa học kỹ thuật, nhất là xã hội, lý luận, tinh thần. Những thiếu hụt, yếu kém về chất của nền kinh tế cũng đã xuất hiện rất nhiều và tích tụ, nhưng bị cố tình bỏ qua, cố tình không được nhận biết để đề phòng, tránh né, ai nhắc đến thì bị trù dập cô lập hoặc cho là phản động…
Đến những năm 70 và 80 tại các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô bắt đầu có phong trào hình thành các Liên hiệp xí nghiệp theo ngành trong mọi ngành kinh tế, được thúc đẩy do sự phát triển về lượng nói trên tạo điều kiện tích lũy tài sản, công cụ, vốn sản xuất. Đây là qua trình chuyển biến tất yếu của sự tích tụ vật chất lớn thành lớn hơn để tăng hơn nữa hiệu quả kinh tế, trình độ kỹ thuật, tập trung nguồn lực đầu tư và nhiều mục tiêu hợp lý khác… Vì sự hợp lý của các mục tiêu và hiệu quả cao mà nó mang lại mà mô hình Liên hiệp các Xí nghiệp hay Tổng công ty phát triển rất nhanh và không thể cưỡng lại, hình thành các tổ chức kinh tế siêu lớn nhiều tầng lớp lên đến cấp các bộ ngành, đối trọng lại với các tập đoàn kinh tế quốc gia và siêu quốc gia của các nước tư bản trong môi trường của chiến tranh lạnh. Vấn đề là sự phát triển này vẫn chỉ là sự liên kết cơ học, lỏng lẻo, bề ngoài, rất hình thức và không có chất lượng, không có sự kết dính cũng như sự đồng nhất, nhất quán nào… Tóm lại, sức mạnh bên trong là không có, trỗng rỗng, không tương xứng qui mô bên ngoài.
Nhưng đến lúc này thì các Liên hiệp xí nghiệp hay các Tổng Công ty nhà nước lớn nhất nghiễm nhiên trở thành các cơ quan quản lý thực chất ngành của mình, có nghĩa là chúng bắt đầu vừa đá bóng, vừa thổi còi. Nói là “quản lý thực chất” là bởi vì vẫn còn đó các nhà quản lý nhà nước đang bị mất dần thực quyền vì xa rời thực tế và không nắm quyền lực vật chất…
Thế là, trên sân bóng “nền kinh tế XHCN” xuất hiện nhiều người vừa thổi còi cùng lúc vừa đá bóng. Họ vốn là các huấn luyện viên của các đội hay các cầu thủ giỏi, nay được giao vừa đá bóng vừa thổi còi, bên cạnh những tiếng còi ngày càng yếu ớt và lạc điệu của trọng tài chính (quản lý nhà nước) vì họ không “đá bóng” được… Trên sân bóng đó ngày càng ít cầu thủ đá bóng thực sự vì họ phải đá theo nhiều tiếng còi quá. Cuối cùng là họ chỉ đá vờ… là hiệu quả nhất!
Trong các công ty, liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty nhà nước… của nền kinh tế XHCN phát triển và lây lan nhanh chóng bệnh “đá vờ”: quan liêu, hình thức, lãng phí, giả dối, tham nhũng, quyền hành và lợi ích nhóm… Sự mâu thuẫn của việc các đơn vị kinh tế lớn vừa quản lý vừa kinh doanh trên qui mô lớn tạo ra môi trường nguy hiểm cho các “cú đá vờ” lớn, và thuận lợi cho rất nhiều tệ nạn xã hội, đạo đức vốn đã ấp ủ từ giai đoạn phát triển trước đó. Xã hội các nước Đông Âu và Liên Xô từ đó nhanh chóng rối loạn các bậc thang giá trị, đạo đức cá nhân và xã hội xuống cấp, các tổ chức tan rã hàng loạt.
Chính quá trình hình thành và phát triển chưa đầy 20 năm của mô hình kinh tế Tổng công ty nhà nước đã trực tiếp phá vỡ các nền kinh tế và góp phần làm bệnh hoạn không thuốc chữa cho cả xã hội của hệ thống các nứớc XHCN những năm 80, tạo môi trường hỗn loạn rồi góp phần chính yếu và quyết định vào sự sụp đổ của cả hệ thống các nước XHCN tại Châu Âu, vào chính thời điểm khi mà họ tưởng như đã mơ thấy mình vượt qua chủ nghĩa tư bản và sờ tay vào chủ nghĩa cộng sản.
Đáng lẽ ra những năm 70 và 80 của thể kỷ trước phải là giai đoạn phát triển cực thịnh của các nền kinh tế XHCN, mang tính chất tập trung lượng lớn để chuyển thành chất mới, để “lên chế độ cộng sản chủ nghĩa” như các chính phủ đó tin tưởng và kỳ vọng. Điều bất ngờ đã xảy ra là bởi cái chất bên trong không có gì vì không được coi trọng nhiều năm trước đó của chính thể, hay cái có đó lại là sự nhu nhược, ung thối tràn lan nay được nhanh chóng phát tán dẫn đến tan nát cả hệ thống và toàn xã hội!
Những kẻ những năm 50-60 đã bỏ qua và bao che tội trộm gà của những đứa trẻ lớp con cháu mình thì đến năm 80-90 đã phải đắng họng chấp nhận bị chúng (lớn khôn và có quyền hành rồi) ngang nhiên trộm hết trâu bò cày kéo của các “hợp tác xã” xã hội chủ nghĩa đem thịt hay chiếm dụng riêng, làm thương hiệu HỢP TÁC XÃ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA sập tiệm hoàn toàn trên Trái Đất.
Khi các nước XHCN châu Âu sụp đổ, cả Trung Quốc và Việt Nam đều choáng váng vì số phận của các bậc tiền bối và lo sợ cho tương lại của chính mình. Họ nhanh chóng qui các nguyên nhân và trách nhiệm làm sụp đổ cho các đường lối chính trị sai lầm hay/và sự yếu kém của tổ chức cá nhân lãnh đạo trong các đảng cầm quyền của các nước “đàn anh” đó, mà không ai thực sự nhìn thấy và chỉ ra nguyên nhân chính sâu xa và quyết định nhất chính là sự nguy hại bệnh hoạn của mô hình kinh tế dựa trên các tổng công ty nhà nước làm lực lượng chủ đạo (khi đó thậm chí gần như là duy nhất).
Công bằng mà nói, mô hình liên hiệp xí nghiệp hay tổng công ty nhà nước XHCN chỉ là những mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, bất công và các loaị bệnh hoạn xã hội khác nẩy mầm và phát triển man rợ mà thôi, bản thân chúng không làm sụp đổ cả thể chế được, nhưng các thể chế XHCN lại đứng trên chúng, dồn vốn xã hội cho chúng, hy vọng được dựa vào chúng để có sức mạnh kinh tế. Tác nhân phá hủy nằm ở chính “cơ chế”, chính sách, đường lối và đạo đức con người trong các tổ chức trong toàn xã hội. Còn những hạt giống bệnh hoạn đã luôn có sẵn trong mỗi con người. Khi có thêm trong những sai lầm lý luận chính trị, cơ sở lý thuyết và các phương thức tổ chức xã hội của các nền kinh tế tự gọi mình là XHCN chăm vun vào, khuyến khích thêm, chúng phát triển và “phát huy tác dụng” nhanh đến không ai có thể ngờ tới.
Tại Trung Quốc và Việt Nam những năm cuối 80 đầu 90 cũng đã hình thành các tổng công ty toàn ngành với tất cả các hệ lụy bệnh hoạn của chúng như ở các nước XHCN châu Âu trước đó. Nhưng do đặc thù văn hóa châu Á, do đặc thù của các đảng cộng sản châu Á (“chuyên chính vô sản” hơn), và nhất là do họ là người phải học theo Liên Xô và Đông Âu nên các tổng công ty nhà nước XHCN ở châu Á được hình thành muộn hơn chừng 5-10 năm. Các tổng công ty nhà nước XHCN châu Á chưa kịp “biến lượng lớn thành chất mới” để làm nền kinh tế XHCN của nước mình sụp đổ thì các đảng cộng sản cầm quyền đã phải tiến hành gấp rút các cuộc cải tổ chính trị rộng khắp để cứu vãn chế độ. Trung Quốc thì tiến hành “mở cửa”, Việt Nam thì “đổi mới”, còn Bắc Triều Tiên thì “đóng cửa”… Các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam thì thoi thóp như người bị ung thư giai đoạn cuối, ở Trung Quốc thì chúng hung hăng như người bị tâm thần, còn ở Bắc Triều Tiên thì chúng trở nên độc đoán như những kẻ quản ngục…
Hai mươi năm sau sự sụp đổ của hệ thống XHCN, nhân dân Việt Nam thần kỳ vực dậy đất nước mình, nền kinh tế từng bước phục hồi với nhiều thành phần mới. Những kẻ vượt qua “ung thư giai đoạn cuối” vẫn được coi là “lực lượng chủ đạo”, đã vô thức quên mất cha sinh mẹ đẻ của chúng là ai. Lý do: điều đó nhắc đến cái chết hàng loạt đã nói trên của các nền kinh tế XHCN Châu Âu! Tâm thức con người có bản năng tránh né sự đau buồn, tâm thức xã hội và nhà nước hóa ra cũng vậy! Thay vào lý lịch đó, chính phủ khoác lên chúng hai chữ “tập đoàn” mới mượn từ các nền kinh tế tư bản mà cụ thể là từ Nhật và Hàn quốc, và chỉ sang tư bản bảo với chúng rằng cha mẹ chúng là nền kinh tế thị trường, hãy ra đó mà tung hoành và chủ đạo!
Không ai muốn nhớ và nhắc nhở rằng chúng là con cháu thực và mang gen di truyền của những tổng công ty toàn ngành nhà nước bên trời Âu đã từng phá vỡ nhanh chóng các nền kinh tế từng khá hùng mạnh của các nước XHCN châu Âu thuở nào.
Đến đây thì chúng ta đã hiểu và trả lời được câu hỏi: cha sinh mẹ đẻ của mô hình tổng công ty và tập đoàn nhà nước là ai? Khi biết thân cha thế mẹ của một người là ai thì chúng ta dễ đoán sự nghiệp tương lai của kẻ đó, thông qua hiểu biết về sự nghiệp của cha mẹ họ. Điều đó giúp chúng ta không cần tranh luận về sứ mệnh và tương lai của mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam nữa.
Nếu sự nghiệp vang dội của cha mẹ – mô hình mẫu – của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam là phá vỡ nhanh chóng trong thời gian chưa đầy 20 năm và phá hủy toàn diện một loạt các nền kinh tế XHCN khá hùng mạnh của đất nước họ, thì có lẽ sự nghiệp của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam hiện nay cũng sẽ như thế thôi, hay có khi còn vang dội hơn. Điều mà cha mẹ phải làm trong 20 năm, thường con cái chỉ cần làm trong 5-10 năm thôi.
Vậy là chúng ta cũng đã trả lời được cả câu hỏi thứ hai: Các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam sẽ đi về đâu? Đó là: Chúng sẽ thực hiện sứ mệnh của chúng. Chúng sẽ phá vỡ hoàn toàn và nhanh chóng nền kinh tế của Việt Nam .
Chúng ta đã có một số “kết quả ban đầu” qua thành tích gần đây của tập đoàn kinh tế Vinashin. Giống như trước Khởi nghĩa 1945 đã có Xô viêt Nghệ tĩnh 1930, trước Đồng Khởi 1960 đã có Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940 vậy. Nhưng tại sao lại là Vinashin “nổ phát súng đầu tiên” mà không phải tập đoàn nào khác? Có vài ba nguyên nhân góp lại làm nên chuyện này.
Thứ nhất, Vinashin hoạt động trong ngành công nghiệp cần vốn rất lớn nhưng lại chỉ bán được sức lao động của công nhân là chính. Ở đấy không có dầu bơm lên mà đổi đôla, không có than đào lên mà bán, không có điện nước cứ đo đếm mà thu tiền, chỉ có nhân công lao động chất lượng và hiệu quả mới đổi lấy tiền của người khác được. Ở đó cứ phạm sai lầm làm mất mát lớn, rất lớn qua đồng tiền lãi vay, qua số vốn đầu tư lớn nằm chết và qua số tiền để nuôi giữ lực lượng lao động cực lớn… Ở đó cần nhất cái tâm sáng của những con người và cơ cấu tài chính minh bạch. Cả hai điều này đã không có tại Vinashin; tất cả các tập đoàn khác có lẽ cũng thế thôi, không có.
Thứ hai, Vinashin lại được nhà nước kỳ vọng và giao trọng trách làm trụ cột cho việc thực hiện chiến lược biển quốc gia, với một số vốn cực lớn và sự ưu ái đặc biệt thông thoáng. Việc này giống như một gia đình nghèo giao cả tài sản cho cậu trai út đóng thuyền đi buôn và tìm đường đi cho cả nhà, chỉ vì cậu hứa sẽ làm được. Thực tế là cậu không đủ sức, ít kinh nghiệm nhất, cậu còn không thích sửa chữa tàu bè và chưa bao giờ biết quản lý tiền cả nên cậu mang tiền đi đầu tư đất đai và ăn tiêu sạch, con tàu để ra khơi vẫn chưa mua ván để đóng… Tóm lại cậu út đã bị số tiền vốn đè bẹp dí trước khi có thể điều khiển nó.
Thứ ba, mô hình tổng công ty rồi tập đoàn kinh tế cho Vinashin quá nhiều quyền quản lý và huy động vốn đầu tư mà không đòi hỏi phải có năng lực và kết quả gì tương xứng. Thế là Vinashin sát nhập mọi loại đơn vị khác đang hấp hối vào với mình để “phát triển” theo chiều rộng. Số tiền Vinashin vay chỉ đủ để làm lễ khởi công các công trình hoành tráng khắp đất nước là đủ… bốc hơi hết. Điều này giống hệt các công trình lớn của các tổng công ty nhà nước bên Liên Xô và Đông Âu những năm 80, để lại cảnh hoang tàn khắp nơi mà nhiều năm sau người ta vẫn phải dọn dẹp.
Các tập đoàn khác cũng có ba vấn đề đầu tiên trên ở mức độ khác nhau không hề kém nghiêm trọng, nhưng họ có vốn kinh doanh tự có rất lớn từ việc bán rẻ tài nguyên đất nước (dầu khí, điện, nước, than, khoáng sản…) – cái mà họ có thực quyền quản lý, nên họ còn đang xoay sở, chưa sụp đổ mà thôi.
Rồi sẽ đến ngày các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam đồng loạt “chuyển lượng thành chất”, hay đồng loạt sụp đổ, hay sụp đổ theo dây chuyền – anh này kéo anh kia theo. Lúc đó là chúng hoàn thành “sứ mệnh” của mình – làm cho nền kinh tế quốc gia sụp đổ (vì chúng là lực lượng chủ đạo), nhờ có cái gen mà chúng mang theo trong mình từ khi cha sinh mẹ đẻ – cái gen tài năng vừa đá bóng vừa thổi còi. Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng đổi màu sở hữu chủ. Vật chất không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ chủ này sang chủ khác.
Ở đây nảy sinh câu hỏi thứ ba: Ai sẽ được lợi khi điều đó xảy ra? Ai sẽ là chủ mới của các Tổng công ty và tập đoàn đó khi không còn nhà nước vốn bảo hộ cho chúng? Câu hỏi này hơi phức tạp và xin để làm chủ đề cho phần sau.
T. T. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
.
.
.
No comments:
Post a Comment