Saturday, April 4, 2009

MỘT PHIÊN TOÀ CÓ NHIỀU ĐIỀU LẠ
J.B Nguyễn Hữu Vinh's Blog
Sunday April 5, 2009 - 12:29am (ICT)
http://blog.360.yahoo.com/blog-70E4DJgncqh4bdwp4ijZ7Q--?cq=1&p=781
Phiên toà phúc thẩm xử các giáo dân Thái Hà đã trôi qua 1 tuần nhưng dư âm của nó vẫn còn vang xa. Không có may mắn được hoà mình vào dòng người tuôn chảy về Hà Đông hôm đó, dù cả ngày “ngồi chơi xơi nước” cách đó không xa - là một thiệt thòi của bản thân tôi. Không thể dự phiên toà “công khai”

Khi 8 giáo dân Thái Hà một lần nữa phải ra trước vành móng ngựa, đồng đạo của tôi và những người quan tâm đến vụ án từ mọi miền đất nước kéo về tràn ngập để chứng kiến một “phiên toà công khai”. Trước mắt họ, là hàng rào sắt, là cảnh sát các loại và những phương tiện khủng khiếp mới nhìn qua đã đủ để những người yếu bóng vía phải rụng rời chân tay.
Đúng giờ khai mạc phiên toà cũng là giờ tôi “được” các “đồng chí” ở Sở Công an Hà Nội triệu tập lên 87 Trần Hưng Đạo - Hà Nội, thay vì số 6 Quang Trung – Hà Đông như mấy lần trước, để hỏi thăm đủ thứ chuyện không đầu không cuối.
Tôi thấy thật buồn cười khi nghĩ về phiên toà “công khai” đang xử các giáo dân trong kia và cái cách xử sự này, nó không minh bạch và… hèn, biểu lộ sự sợ hãi mơ hồ nào đó.
Đến khi tôi được rời sở Công an thì phiên toà ở Hà Đông cũng kết thúc. Sau đó, tôi mới được biết nhiều giáo dân cũng đã được cán bộ “quan tâm”, gọi lên dặn dò, khuyên nhủ không nên đến toà.

Phiên toà đã qua nhưng đã để lại trong mỗi chúng ta, dù có mặt tại Hà Đông trong ngày 27/3 hay không, nhiều suy nghĩ.
Đối với tôi – đây là phiên toà hiếm có trong lịch sử đất nước, ít nhất là từ khi tôi chào đời và được sống trong “thiên đường xã hội chủ nghĩa” đến nay đã gần nửa thế kỷ.Phiên toà có nhiều điều lạ

Đây là phiên toà thứ hai (sau phiên toà sơ thẩm xử chính 8 giáo dân này) để nhà nước có dịp phô diễn các đạo quân cảnh sát, binh hùng, tướng mạnh, phương tiện vũ khí đầy đủ và đội quân cán bộ hùng hậu được huy động.
Nhìn cảnh bày binh bố trận như trên, câu nói: Lực lượng vũ trang của chúng ta “kẻ thù nào cũng đánh thắng” là hoàn toàn có cơ sở.
Ông Lê Công Phụng, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao trả lời báo chí nước ngoài có nói đại ý rằng chúng ta là một nước nhỏ, sống bên nước lớn nên nhiều khó khăn, ngay cả việc đưa vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa ra Liên Hợp Quốc cũng cần suy xét… Có thể ông có lý?
Có lẽ vì vậy mà cứ mỗi lần có vấn đề với Trung Quốc trong tranh chấp lãnh hải, lãnh thổ… thì Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng chỉ “ra tuyên bố: Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử về chủ quyền…” – Và chỉ có thế mà thôi.
Khi các sinh viên, thanh niên biểu tình biểu thị lòng yêu nước trước ĐSQ Trung Quốc thì bị ngăn cản, bị trấn áp… có người đã giải thích “rất có lý”: “Đất nước mình yếu, lại nghèo nên không thể đối đầu với Trung Quốc, đành phải làm thế để giữ hoà khí mà thôi”.
Nhưng sau khi xem hình ảnh phiên toà xử các giáo dân, tôi cho rằng ông Phụng và những người kia đã không hiểu được sức mạnh của nhà nước nên mới nói bừa.

Cụ thể: Một phiên toà đơn giản, 8 giáo dân tay không, đập phá một đoạn tường rào cũ (cơ quan nhà nước thẩm định không tới 500.000 đồng/người để cấu thành tội “phá hoại tài sản” - theo luật). Một phiên toà với 8 công dân Việt Nam, án nặng nhất cũng chỉ là “án treo, cảnh cáo” mà còn chống án kêu oan, nghĩa là tội chẳng có gì ghê gớm bằng tội cướp nước và bán nước.

Vậy mà khi đưa ra xét xử, hàng hà sa số cảnh sát, cán bộ từ phường, xã quận huyện đến thành phố… được điều động, các loại phương tiện, vũ khí, chó nghiệp vụ, máy móc… được đưa ra trong tư thế “sẵn sàng chiến đấu”. Chưa hết, phiên toà được mở ngày 27, nhưng trước đó, báo chí đã mở đường tuyên truyền tấn công dồn dập, đồng loạt kết tội. Nhân dân được “quán triệt” phải cảnh giác, cán bộ được huy động vận động giáo dân không đến Toà, trường học trong khu vực bị đóng cửa, cửa hàng, chợ búa bị tạm ngừng.
Với công dân của mình còn như vậy, thì với quân thù, chắc chắn sức mạnh được phô diễn sẽ gấp bội phần? Đâu phải chúng ta thiếu sức mạnh của vũ khí và phương tiện cũng như con người cho việc bảo vệ lãnh hải và lãnh thổ?
Vậy thì không thể nói rằng đất nước chúng ta còn nghèo. Người nào nói vậy thì chẳng qua họ thiếu hiểu biết.
Cũng vì thế, chúng ta có quyền cao giọng nói với các thế lực thù địch bành trướng xâm lược rằng: “Chúng ta có đủ khả năng về con người, phương tiện và kinh tế… để đủ sức làm cho chúng kinh hồn bạt vía. Cứ đến Hà Đông mà xem, chỉ với mấy công dân VN và cái án con muỗi mà nhà nước còn công phu tốn kém thế này, thì kẻ thù của đất nước chỉ có nước… biến. Nếu không được mời, thì bọn bành trướng đừng mơ đặt chân lên đất nước này”.

Điều lạ thứ hai là cách xét xử của Toà án Nhân dân TP Hà Nội. Thông thường, việc tranh luận trước toà của bị cáo, luật sư… là điều hết sức cần thiết để làm sáng tỏ vấn đề có tội hay không có tội, cơ sở nào để cấu thành tội trạng đó… cũng như hàng loạt vấn đề được công khai xem xét để phù hợp với nghĩa của từ “tranh tụng”.
Tại phiên toà này, phần tranh luận, bào chữa của Luật sư bị cắt thì lấy gì để làm sáng tỏ vấn đề đang xét xử? Bởi phần biện hộ đó, liên quan đến cơ sở của những hành động được nhà nước cho là “hành vi phạm tội” của các bị cáo: Nguồn gốc đất đai của mảnh đất tranh chấp ở Thái Hà, tính pháp lý của bức tường bị đập kia ở đâu?
Tôi đọc trên báo chí nhà nước có đoạn này: “…70 năm về trước (từ 13-17/8/1937), Người (Hồ Chí Minh) đã đến nơi này gặp lãnh tụ của phong trào Quốc tế Cộng sản Dimitrop để nhận chỉ thị về cách mạng Việt Nam. Trong giây phút chia tay, lãnh tụ Dimitrop nắm tay Bác xúc động nói: “Chúc anh may mắn, hãy dựa hẳn vào quần chúng nhân dân, quần chúng có nhiều cái đáng cho ta phải học hỏi””. (Theo
«Đông Âu ký sự». Sức Khoẻ & Đời Sống, ngày 11/05/2007)
Hai nhân vật được nói tới trong đoạn trên đã nhắc tôi nhớ đến hai phiên toà: Phiên toà của Phát xít Hitle xét xử Đimitrop – lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản - về tội “đốt nhà quốc hội” và phiên toà của chính quyền HongKong xử Tống Văn Sơ – tức Hồ Chí Minh về tội “là Cộng sản và tay sai Liên Xô”. Đây là vụ án được coi là “châu chấu đá voi”.

Cả hai phiên toà, nhờ tranh tụng thật sự tại phiên toà được thoải mái, đúng theo luật pháp đã quy định mà Đimitrop được tuyên vô tội và Tống Văn Sơ đã không bị kết tội mà chỉ bị trục xuất. Dù thực chất thì Tống Văn Sơ chính là Cộng sản và quan toà HongKong cũng biết điều đó. Nhưng sự tranh tụng tại Toà được công nhận và tôn trọng luật pháp nên Tống Văn Sơ đã thoát khỏi vụ án này.
Trong phiên toà Tống Văn Sơ, có những đoạn như sau: “Ông ta đặt ra trước mặt Tống Văn Sơ một tấm hình chụp nhà cách mạng Nguyễn ái Quốc đầu đội mũ dạ cứng hình quả dưa, dưới ảnh có đề Đồng chí Nguyễn Ái Quốc bằng chữ in. W.Thomson chắc mẩm rằng, lần này, ông Tống hết đường chối cãi. Tống Văn Sơ cầm bức ảnh lên ngắm nghía một thoáng rồi trả lời: “Tôi thấy cái ảnh này trông giống tôi!” Rồi ông Tống lại nói thêm: “Và có thể là tôi”!
Nghe được câu đó, W.Thomson mừng rỡ như bắt được vàng, chưa kịp nói câu gì thì Tống Văn Sơ lại thản nhiên nói tiếp: - Nhưng chưa bao giờ tôi đội cái mũ này!
Kẻ hỏi cung ớ miệng, không nói được câu gì, chỉ còn cách giơ hai tay lên đầu, mặt nhăn nhó tựa như chó cắn phải mướp nóng!”
Qua đó, chúng ta thấy rằng ở những phiên toà kia của bọn phát xít và đế quốc thực dân, quyền bào chữa được đã được tôn trọng, luận cứ bào chữa tại toà được lấy làm căn cứ để kết tội chứ không theo một ý muốn, mệnh lệnh hoặc chỉ thị nào. Tóm lại, ở đó không có loại “án bỏ túi”, những vụ án đó, không có sự lãnh đạo của một đảng phái nào, pháp luật được thượng tôn.
Còn ở vụ án 8 giáo dân Thái Hà - phiên toà ở thế kỷ 21 tại Việt Nam, một đất nước “dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản” - Luật sư Lê Trần Luật đã bị ngăn cản, khống chế bằng mọi cách. Lời bào chữa của các luật sư còn lại bị cắt ngang. Tang vật phạm tội không có, hai đĩa hình được sử dụng để kết tội giáo dân đã bị phủ nhận tính hợp pháp. Không hiểu hai đĩa hình này có giá trị pháp lý bằng tấm hình của Tống Văn Sơ trong phiên toà HongKong hay không?
Toà đã bỏ qua tất cả để kết tội các giáo dân.

Nói rằng “phiên toà lạ” là khi chúng ta đem so sánh với phiên toà của bọn phát xít, thực dân đế quốc cách đây cả gần thế kỷ, còn khi xem những phiên toà như phiên sơ thẩm và phúc thẩm với 8 giáo dân Thái Hà này, người ta cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Câu khẩu hiệu “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật” vẫn nhan nhản, nhưng khẩu hiệu chỉ là khẩu hiệu mà thôi.

Điều lạ thứ ba, phiên toà đã được sự chú ý và tập trung đông đảo lực lượng quần chúng nhất kể từ xưa tới nay. Hàng ngàn người từ muôn nơi, bất chấp trở ngại, khó khăn gian khổ và nguy hiểm đã đến toà như đi trẩy hội, bị cáo đến toà với trang phục và ánh mắt rạng ngời như đi đến đài vinh quang…
Đó là một sự thật không thể chối cãi. Dù báo chí nhà nước đã cố công tô vẽ rằng: có những thế lực, những kẻ chủ mưu lợi dụng lòng tin của giáo dân để lôi kéo họ đến toà và đòi “nghiêm trị”. Xin thưa rằng: Lòng tin người dân đâu dễ lợi dụng đến thế? Trên các báo cáo và truyền thông nhà nước luôn có câu: “Nhân dân ta tuyệt đối tin tưởng vào Đảng và nhà nước”. Vậy thì làm sao cả hàng ngàn người dân đã có “lòng tin tuyệt đối” kia lại dễ bị lợi dụng đến thế để kéo đến phiên toà mà hô vang “Vô tội, vô tội, trả lại Công lý, Sự thật”?.
Cũng xin đừng mập mờ rằng họ chỉ là những nông dân nghèo, ít nhận thức, ít học, chỉ có lòng tin mù quáng mà có thể khẳng định rằng họ là những người dân hiểu biết pháp luật, họ hiểu họ có quyền gì.
Nếu lòng tin của nhân dân bị lợi dụng như đã từng bị lợi dụng trong quá khứ, thì khi “cái kim trong bọc đã lòi ra” lòng tin sẽ biến mất và thay vào đó là sự uất hận và vô cảm. Điều đó đã có nhiều thực tế để chứng minh. Nhà thơ Bùi Minh Quốc - nhà thơ mà cuộc đời của ông đã từng gắn liền với huyền thoại về sự hy sinh của văn nghệ sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ đã từng viết: “Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt. Lại đúc nên chính cỗ máy này”.

Điều lạ thứ tư có thể kể đến là lần đầu tiên, những tiếng kêu thét đòi “Sự thật, Công lý” được đám quần chúng hô vang như một đòi hỏi chính đáng và là một nhu cầu bức thiết cho xã hội được phát triển, đất nước được tiến bộ. Bởi không có một đất nước nào có thể phát triển nếu không dựa vào Sự thật, Công lý. Những lời đó đã được hô vang trên các con đường Hà Đông, trước sở Công an Hà Nội và Thị uỷ Hà Đông.

Điều lạ nữa chắc các cán bộ và công an có mặt cũng như những người quan sát từ xa phiên toà này phải thừa nhận là: hàng ngàn con người đã đến toà, đứng cả ngày dưới nắng nóng. Họ đến từ muôn phương, không quen biết lẫn nhau, không cùng giọng nói và quê hương, khác biệt về trình độ và nhận thức… nhưng đã không có bất cứ một sự xô xát, cãi vã hay hiềm khích nào xảy ra. Ngược lại, họ đã bên nhau đoàn kết, hiệp thông và chia sẻ. Họ đến dự phiên toà, đồng cảm với các nạn nhân mà có thể họ chưa hề biết đó là ai ngoài mỗi một thông tin rằng những bị cáo kia là giáo dân.

Điều lạ lùng hơn nữa là hệ thống truyền thông đã tốn công sức, tiền của, giấy mực để nhất loạt đòi nghiêm trị “kẻ chủ mưu, xui bẩy giáo dân đập tường”. Nhưng khi bị cáo đã khai ra kẻ chủ mưu thì Toà lại lờ đi và không nghiêm trị, ít nhất là trong bản án.
Tại toà, bị cáo Nguyễn Đắc Hùng, khi được hỏi: “Có ai xúi giục đập tường rào không?” đã trả lời: “Có”. Toà hỏi tiếp “Ai đã xúi giục?” thì bị cáo đã trả lời rõ ràng: “Chúa”.
Nhưng “kẻ chủ mưu” này đã không bị nhắc nhở, cảnh cáo hay bị nghiêm trị, phạt tù…

Mèo tha miếng thịt thì đòi…

Toà án đã bằng mọi cách để kết tội các giáo dân là “vi phạm pháp luật”, tuyên y án bản án rất nhỏ “tù án treo, cải tạo không giam giữ và cảnh cáo”... Để kết được tội các giáo dân này, nhà nước đã tốn một khoản không thể gọi là nhỏ về tiền bạc, của cải vật chất, sức người… trong khi kinh tế đang suy thoái.
Tổng kết lại thì nhà nước đã đánh đổi cái rất lớn để lấy cái rất nhỏ xét về phương diện vật chất. Đó là chưa nói đến lòng dân, những người đến dự phiên toà dù là Công giáo cũng như không Công giáo, hay chỉ là những người qua lại trên con đường huyết mạch nối Thủ đô với Tây Bắc hôm đó.
Hẳn qua phiên sơ thẩm, nhà nước thừa biết rằng mở phiên toà này nhằm mục đích răn đe thì đã không có tác dụng.
Điều này nói lên một sự thật không dễ nghe: Nhà nước đã không hiểu lòng dân. Nhà nước đã thiếu thông tin và lòng tin nghiêm trọng về những công dân hiền lành và nhẫn nhục này. Và đối lại, lòng tin của những người dân này cũng đã tiêu tan khi toà đã bất chấp tất cả để cố tình kết tội các giáo dân.

Nếu không nghiêm trọng hoá vấn đề, cứ xử theo luật pháp bình thường, kể cả tuyên án vô tội khi không có đủ bằng chứng kết tội họ, chấp nhận đền bù tí chút vật chất, tinh thần cho những giáo dân đã bị bắt bớ, giam cầm, chấp nhận “nhìn thẳng vào sự thật”, thì tôi tin rằng mọi việc sẽ hết sức dễ dàng và đơn giản. Người Công giáo xưa nay vẫn được giáo dục kỹ càng về sự tha thứ, phải tha thứ cho bất cứ ai với một lẽ đời đương nhiên là ai cũng có thể có những sai lầm và cần được tha thứ.
Nếu được như vậy, giáo dân từ muôn nơi đã không phải bỏ cả gia đình, công việc và cuộc sống của mình, bất chấp tất cả và chi phí một khoản tiền bạc, sức lực, của cải… để đến dự phiên toà.
Những vật chất đó đã phải tiêu phí, cũng là vật chất của cải trong xã hội Việt Nam. Trong khi đất nước đang rất cần thắt lưng buộc bụng vượt qua cơn khủng hoảng.

Nhìn hình ảnh hàng ngàn người, trẻ già, trai gái cùng đồng hành vượt cả chục cây số bằng phương tiện duy nhất là đôi chân, tôi hiểu về ước vọng và khát khao của họ với Sự thật, Công lý lớn lao đến mức nào. Tôi cũng hiểu sự hiệp thông và tình cảm họ dành cho giáo dân, đồng đạo của mình thật nồng hậu và to lớn, tình cảm đó đã vượt qua tất cả những khó khăn về thể lý để quyết tâm đi đến cùng trên con đường tìm kiếm Công lý, Sự thật.
Tất cả những hình ảnh đó nói lên: Công lý, Sự thật và Chính nghĩa đang thuộc về đâu. Cách hành xử với một vụ án “con kiến” này đã làm nhiều người trong xã hội phải suy nghĩ: Nguyên do nào có sự khác thường đến thế? Điều này có thể xảy ra hay không nếu họ không phải là giáo dân?
Nói đến đây, thiết nghĩ cần nhắc lại câu nói của chính Đimitrop, lãnh tụ cao nhất của Cộng sản quốc tế đã từng dặn dò Hồ Chí Minh “…hãy dựa hẳn vào quần chúng nhân dân, quần chúng có nhiều cái đáng cho ta phải học hỏi”. Không hiểu những cán bộ đã “thấm nhuần đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh” qua bao lớp học triền miên, tốn kém vừa qua có học và nhớ câu nói này? Không hiểu những người quản lý các tờ báo đã nghĩ gì khi có những bài viết xuyên tạc nhằm đánh vào sự thật, nhằm làm chia rẽ tình đoàn kết trong lòng dân tộc, trong nội bộ nhân dân, bôi xấu công dân và nhục mạ một bộ phận lớn cộng đồng dân tộc, làm suy yếu đi tình đoàn kết toàn đất nước trước hoạ xâm lăng đang càng ngày càng cận kề?

Với những người Công giáo, cả hàng giáo phẩm và tu sĩ, chúng ta nghĩ gì trước hàng ngàn con người đứng thẳng và tươi cười trước hàng rào sắt, chó, cảnh sát và một rừng thiết bị, xe pháo, dùi cui, hơi cay… khi nhìn lại bản thân mình. Trong khi chúng ta có nghĩa vụ hiệp thông với mọi thành phần, mọi cá nhân trong Giáo hội, tất cả đều có vai trò là Ngôn sứ của Thiên Chúa, có nhiệm vụ phải bênh vực lẽ phải, sự công chính và những kẻ yếu hèn bị áp bức dù họ có trong giáo hội hay không. Thiết nghĩ không ai có quyền dửng dưng.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhiều Hồng ân, được làm con cái Chúa. Ngài đã ủi an chúng ta trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện sống và cũng đòi hỏi chúng ta có nghĩa vụ đối với đồng đạo, đồng loại của mình. “Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”. (Thư Côrintô 2 – Chương 1).
Sự vô cảm, sự im lặng nhiều khi cũng đồng nghĩa với sự phản bội, mà trên đời này chắc sự phản bội là khó được tha thứ nhất, theo thiển ý của cá nhân tôi.

Hà Nội, một tuần sau ngày xét xử sơ thẩm 8 giáo dân Thái Hà 4/4/2009
J.B Nguyễn Hữu Vinh



No comments: