Tại
sao Israel không phải đối mặt với khủng bố hay nổi dậy ở Trung Đông?
Daniel Byman
- Foreign
Affairs
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên
dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/08/07/tai-sao-israel-khong-phai-doi-mat-voi-khung-bo-hay-noi-day-o-trung-dong/
Tại sao
các cuộc chiến gần đây của Israel lại ít kích động khủng bố và không dẫn đến
các cuộc nổi dậy hàng loạt?
Trung
Đông đang trong khủng hoảng, và Israel chính là tâm điểm của cơn bão. Kể từ cuộc
tấn công bất ngờ của Hamas vào ngày 07/10/2023, khiến khoảng 1.200 người Israel
thiệt mạng, quân đội Israel đã tấn công và chiếm đóng phần lớn Dải Gaza, tăng
cường các chiến dịch ở Bờ Tây, tiêu diệt các mục tiêu Houthi ở Yemen, tàn phá
Hezbollah ở Lebanon, đánh vào các địa điểm hạt nhân và quân sự ở Iran, và ném
bom một số khu vực của Syria. Tất cả những kẻ thù này đều có liên hệ với khủng
bố: trong những thập kỷ trước ngày 07/10, Hamas và Hezbollah từng sử dụng khủng
bố để chống lại Israel, giết chết hơn 1.000 dân thường cùng một lượng tương
đương binh sĩ. Thông qua các lực lượng ủy nhiệm và lực lượng của chính mình,
Iran đã tấn công các mục tiêu Israel và Do Thái trên khắp thế giới. Chính quyền
Trump gần đây vừa tái chỉ định Houthi là một nhóm khủng bố, trong khi người cai
trị mới của Syria, Ahmed al-Shara, đã lãnh đạo một nhóm từng có liên hệ với
al-Qaeda.
Trong
bối cảnh này, Israel dường như đang tự rước lấy một làn sóng tấn công khủng bố
mới, thậm chí có thể là một cuộc nổi dậy quy mô lớn. Cuộc chiến ở Gaza đã gây
ra muôn vàn đau khổ cho dân thường. Cùng lúc đó, Israel đang bóp nghẹt Bờ Tây bằng
các cuộc đột kích vào những nơi ẩn náu bị nghi ngờ là của khủng bố. Những chiến
dịch này đã khiến khoảng 1.000 người thiệt mạng và buộc hàng chục nghìn người
Palestine phải di dời. Cộng thêm việc mở rộng các khu định cư của Israel ở Bờ
Tây và những hành vi tàn bạo của những người định cư Do Thái, người Palestine
và các công dân Ả Rập của Israel có rất nhiều lý do để phẫn nộ với Israel.
Nhưng
bất chấp sự giận dữ đó, và bất chấp danh sách dài các kẻ thù của Israel, số vụ
tấn công khủng bố bên trong Israel kể từ ngày 07/10 lại thấp đến ngạc nhiên.
Israel không phải đối mặt các vụ tấn công khủng bố gây thương vong lớn, hay thậm
chí là một loạt các vụ việc nhỏ lẻ kéo dài. Một cuộc intifada (nổi
dậy) lần thứ ba, trong đó người Palestine sẽ đứng lên chống lại sự chiếm đóng của
Israel như họ đã làm trong giai đoạn 1987-1993 và 2000-2005, vẫn là một viễn cảnh
xa vời. Nguyên nhân phần lớn là do thành công của các chiến dịch chống lại kẻ
thù của Israel, cũng như sự hỗn loạn bên trong lực lượng kẻ thù, khả năng kiểm
soát chặt chẽ của Israel đối với các vùng lãnh thổ Palestine, và hệ thống phòng
thủ nội bộ được củng cố mạnh mẽ. Tuy nhiên, thành công đó cũng đi kèm với những
cái giá rất đắt. Ngoài việc giết hại nhiều dân thường, cách tiếp cận hung hăng
của Israel còn đe dọa loại bỏ các giải pháp chính trị tiềm năng cho nhiều cuộc
xung đột mà nước này đang vướng vào. Trong lúc cố gắng ngăn chặn kẻ thù và tự bảo
vệ mình khỏi các cuộc tấn công khủng bố, trên thực tế, Israel sẽ bước vào tình
trạng chiến tranh vĩnh viễn.
CHUÔNG
NGUYỆN HỒN AI?
Tất
nhiên, dân thường Israel vẫn đang bị đe dọa. Iran, Hamas, Hezbollah, và Houthi
đã sử dụng rocket, tên lửa, và máy bay không người lái để tấn công Israel suốt
hai năm qua. Nhưng những vụ việc này có nhiều điểm chung với bản chất đang phát
triển của chiến tranh thông thường, như đã thấy ở Ukraine, hơn là với các vụ
đánh bom liều chết, xả súng, đâm dao, và đâm xe, vốn là hành động quen thuộc của
những kẻ khủng bố chống lại người Israel trong những thập kỷ gần đây. Vụ việc tồi
tệ nhất thuộc loại này trong hai năm qua xảy ra vào tháng 10/2024, khi hai chiến
binh có liên hệ với Hamas giết chết bảy người trong một vụ xả súng và đâm dao
trên một chuyến tàu điện ở Jaffa. Theo truyền thông đưa tin, ước tính có 20 dân
thường Israel đã bị khủng bố giết hại bên trong Israel kể từ tháng 10/2023 và
thêm 14 người khác ở Bờ Tây. Quân đội Israel cũng mất khoảng 17 binh sĩ ở
Israel và Bờ Tây. Nhưng những con số này đang giảm dần: trong ba tháng đầu năm
2025, chỉ có 18 vụ tấn công ở Bờ Tây, so với 72 vụ trong cùng kỳ năm 2024. Những
kẻ khủng bố cũng không thành công trong việc nhắm mục tiêu vào các cơ sở của
Israel hoặc người Israel ở nước ngoài, như chúng từng làm trong thế kỷ 20.
Xét
đến tình trạng chiến tranh triền miên của Israel trong hai năm qua, con số
thương vong từ khủng bố này có vẻ tương đối nhỏ. Quả vậy, Israel chưa phải chịu
đựng bất cứ điều gì ở quy mô tương tự những gì họ đã phải chịu đựng trong các
giai đoạn bạo lực leo thang trước đây. Trong thập niên 1990, các vụ đánh bom
xe, tấn công liều chết, và bắt cóc, như vụ đánh bom liều chết năm 1996 giết chết
26 người tại một trạm xe buýt ở Jerusalem và một vụ khác diễn ra một tuần sau
đó giết 19 người, đã phần nào làm chệch hướng các cuộc đàm phán hòa bình. Trong
cuộc intifada lần thứ hai, Israel đã phải chịu đựng con số kinh hoàng 138 vụ
đánh bom liều chết, bao gồm 53 vụ chỉ riêng trong năm 2002, cùng với hàng nghìn
vụ xả súng và các hình thức tấn công ít gây chết người khác. Hơn 1.000 người
Israel đã thiệt mạng trong giai đoạn đó.
Ngoài
các nhóm bán chính quyền như Hamas và Phong trào Hồi giáo Jihad Palestine, Iran
cũng sử dụng các hành động khủng bố chống lại Israel, thường là hợp tác với
Hezbollah, lực lượng ủy nhiệm thân cận nhất của họ. Một trong những vụ tấn công
nổi bật xảy ra vào năm 1992, khi Iran và Hezbollah đánh bom đại sứ quán Israel ở
Buenos Aires, khiến 29 người thiệt mạng. Sang năm 1994, họ tiếp tục sát hại 84
người khi đánh bom một trung tâm cộng đồng Do Thái ở Argentina (Iran và
Hezbollah thường tuyên bố rằng các mục tiêu Israel và mục tiêu Do Thái và là một).
Một kẻ đánh bom liều chết bị tình nghi có liên hệ với Hezbollah đã cho nổ tung
một chiếc xe buýt chở đầy khách du lịch Israel ở Bulgaria vào năm 2012, giết chết
năm người Israel và một tài xế xe buýt người Bulgaria. Iran và Hezbollah tuyên
bố rằng tất cả các cuộc tấn công này là nhằm trả thù cho các tội ác của Israel,
bao gồm các vụ sát hại các nhà khoa học hạt nhân Iran và nhắm mục tiêu vào các
nhà lãnh đạo Hezbollah ở Lebanon.
Vậy
mà giờ đây, trong lúc Gaza tiếp tục bị tàn phá và sau khi Israel đã hành động
hung hăng và khiêu khích trên khắp Trung Đông, người Israel ở cả trong và ngoài
nước vẫn chưa phải đối mặt với cùng mức độ đe dọa. Kẻ thù của Israel chắc chắn
không thiếu động lực. Hồi tháng 6, Israel đã tiến hành một chiến dịch ném bom
kéo dài, phá hủy phần lớn chương trình hạt nhân của Iran, đồng thời ám sát nhiều
chỉ huy quân sự và nhà khoa học hạt nhân Iran. Ngoài những tổn thất về người và
kỹ thuật, cuộc tấn công của Israel còn là một sự sỉ nhục đối với chế độ Iran, vốn
đã tự khẳng định mình phần lớn nhờ vào thái độ kiên trì thách thức Israel. Vào
tháng 9 và tháng 10/2024, sau một cuộc chiến quy mô nhỏ kéo dài, Israel đã làm
suy yếu Hezbollah thông qua một loạt vụ ám sát, bao gồm cả vụ ám sát Hassan
Nasrallah, thủ lĩnh lâu năm được kính trọng của nhóm này. Tình báo Israel đã nhắm
mục tiêu vào hàng nghìn đặc vụ Hezbollah trong một chiến dịch đánh bom đẫm máu
kinh hoàng, cài đặt chất nổ vào máy nhắn tin và bộ đàm, trong khi quân đội
Israel phát động một chiến dịch ném bom tàn khốc nhắm vào ban lãnh đạo và cơ sở
hạ tầng quân sự của nhóm (và đã giết hại hoặc làm bị thương nhiều dân thường
trong quá trình này). Hezbollah, giống như Iran, đã xây dựng tính chính danh và
kêu gọi sự ủng hộ của công chúng bằng cuộc chiến chống lại Israel. Khi những điểm
yếu của Hezbollah bị phơi bày rộng rãi, cuộc xung đột một chiều năm 2024 trở
thành sự sỉ nhục tột cùng đối với nhóm người từng được ca ngợi này.
Về
phần mình, Hamas, tất nhiên, đã phải đối mặt với một cuộc tấn công tổng lực từ
Israel, mất gần như toàn bộ ban lãnh đạo và hàng ngàn chiến binh. Thủ tướng
Israel Benjamin Netanyahu đã nhiều lần thề sẽ tiêu diệt nhóm này. Trái ngược với
Iran và Hezbollah, Hamas gần như không có động lực nào để kiềm chế các cuộc tấn
công: Chiến dịch của Israel diễn ra không ngừng nghỉ, và các hình thức khủng bố
cũ có thể là cách tốt nhất để trả thù và chứng minh sự liên quan liên tục của
Hamas. Israel cũng đã mở rộng đáng kể các chiến dịch ở Bờ Tây, nhắm mục tiêu
vào Hamas và các chiến binh Palestine khác ở đó, đồng thời cho phép người định
cư Israel lộng hành, quấy rối, tấn công, và thậm chí giết hại người Palestine.
Các vụ tấn công của người định cư trong vài tháng đầu năm 2025 đã tăng 30% so với
năm trước.
Những
cuộc tấn công vào người Palestine này có thể dễ dàng gây ra bạo lực trả đũa
trên diện rộng. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra, bất chấp tất cả những tức
giận và kinh hoàng mà hành vi của Israel đã gây ra cho người Palestine và trong
khu vực rộng lớn hơn trong những năm gần đây.
RĂN
ĐE CHẾT NGƯỜI
Có
nhiều yếu tố giải thích tại sao Israel không phải hứng chịu một loạt các cuộc tấn
công khủng bố truyền thống. Nước này đã liên tục tàn phá giới lãnh đạo của
Hamas, Hezbollah, và giờ là Iran. Như các chiến dịch của Israel chống lại Hamas
trong quá khứ đã chứng minh, việc tiêu diệt thủ lĩnh của các nhóm khủng bố, đặc
biệt là với tốc độ nhanh chóng, có thể làm suy yếu hiệu quả và năng lực tổng thể
của các tổ chức này. Việc liên tục thay đổi các nhân vật cấp cao sẽ gây ra sự
nhầm lẫn trong hàng ngũ cấp dưới và khiến việc triển khai các chiến dịch trở
nên khó khăn. Yêu cầu phòng thủ trước các cuộc không kích của Israel cũng tạo
ra những vấn đề hậu cần riêng. Các nhà lãnh đạo phải tránh sử dụng điện thoại,
email, và các hình thức liên lạc khác vì sợ bị lộ vị trí. Họ phải tin tưởng ít
người và gặp gỡ ít người hơn. Nói đơn giản, họ không thể thực hiện các chức
năng lãnh đạo nếu muốn sống sót.
Chắc
chắn, việc làm gián đoạn ban lãnh đạo của các nhóm khủng bố không thể ngăn chặn
hoàn toàn các hoạt động khủng bố. Hơn nữa, các cuộc tấn công không phối hợp do
các cá nhân thực hiện một mình vẫn có thể xảy ra, như đã từng xảy ra ở Israel kể
từ năm 2023. Tuy nhiên, nếu không có cơ cấu phối hợp và chỉ đạo, những kẻ khủng
bố sẽ khó có thể thực hiện các chiến dịch phức tạp hơn, với khả năng thành công
cao hơn, và giết chết nhiều người hơn.
Các
hoạt động quân sự và tình báo của Israel ở Bờ Tây cũng đã kiềm chế Hamas và các
nhóm chiến binh khác dù chúng gây tổn hại cho người Palestine. Lực lượng Israel
đã tràn vào Bờ Tây, bắt giữ những kẻ tình nghi khủng bố và giết chết những người
khác. Ví dụ, Chiến dịch Bức tường Sắt, được tiến hành hồi tháng 1 ngay sau khi
tuyên bố ngừng bắn ở Gaza, đã chứng kiến quân đội và xe tăng Israel tràn vào
Jenin, cùng với hơn 100 cuộc không kích và tấn công bằng máy bay không người
lái vào các mục tiêu của Palestine. Các quan chức Israel khẳng định rằng mình
chỉ đơn giản tìm cách phá hủy các điểm xuất phát tấn công vào Israel, nhưng
quân đội Israel dường như cũng đang chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài ở Jenin,
Tulkarm, và các khu vực khác ở Bờ Tây mà họ cho là điểm nóng của chiến binh
Palestine.
Israel
cũng đã mở rộng đáng kể việc sử dụng biện pháp giam giữ hành chính ở Bờ Tây và
cô lập một số vùng lãnh thổ với các khu vực khác, ngăn cản chiến binh – cũng
như người dân Palestine – di chuyển qua lại. Chí ít là theo số liệu thống kê
chính thức của Israel, cách tiếp cận cứng rắn này đã mang lại những kết quả
tích cực: so với năm 2024, các âm mưu khủng bố xuất phát từ Bờ Tây đã giảm đáng
kể.
Israel
cũng đã chặn nhiều người Palestine nhập cảnh vào Israel. Ngoài việc phong tỏa
Gaza, Israel còn đình chỉ khoảng 150.000 giấy phép lao động của người Palestine
ở Bờ Tây, ngăn họ vượt biên vào Israel. Những hạn chế di chuyển này, ở cả bên
trong Bờ Tây và giữa Bờ Tây với Israel, chắc chắn sẽ khiến các chiến binh khó tổ
chức các hoạt động bên trong lãnh thổ Israel hơn. Các nhà chức trách Israel
tuyên bố rằng họ đã ngăn chặn hơn 1.000 âm mưu quan trọng vào năm 2024 ở Bờ
Tây.
Ngoài
ra, Israel đã củng cố hệ thống phòng thủ nội bộ và biên giới. Sau vụ tấn công
ngày 07/10, Israel đã nhanh chóng sửa chữa hàng rào an ninh bị phá vỡ dọc biên
giới với Gaza. Quân đội nước này cũng đã thiết lập các vùng đệm bên trong Gaza
và duy trì lực lượng tại một số tiền đồn bên trong Lebanon. Israel đã triển
khai quân dọc biên giới Ai Cập với Gaza và biên giới Jordan với Bờ Tây để ngăn
chặn nạn buôn lậu vũ khí vào lãnh thổ Palestine. Và họ cũng đã tăng cường lực
lượng dọc biên giới với Lebanon và Syria. Những bước đi này khiến Hamas,
Hezbollah, và các nhóm chiến binh khác khó đưa đặc vụ thâm nhập vào Israel hơn.
Chính
quyền Israel còn tăng cường giám sát công dân Palestine tại Israel; người Ả Rập
hiện chiếm khoảng một phần năm tổng dân số Israel (không bao gồm Bờ Tây và Dải
Gaza). Các thành viên của cộng đồng này nằm trong số những nạn nhân của vụ tấn
công ngày 07/10, nhưng quy mô trả đũa của Israel ở Gaza và Bờ Tây chắc chắn đã
khiến một số người Israel gốc Ả Rập trở nên cực đoan chống lại đất nước. Shin
Bet, cơ quan an ninh và phản gián nội địa của Israel, hiện đang tăng cường giám
sát các khu dân cư có tỷ lệ người Ả Rập cao và đã bắt giữ hàng trăm người.
Với
việc Israel đang ở thế chủ động trong các chiến dịch quân sự ở Gaza và Bờ Tây,
và với loạt hành động tàn bạo của người định cư Israel, các chiến binh
Palestine đang tập trung vào các hoạt động ở những khu vực này thay vì tìm kiếm
mục tiêu bên trong Israel. Ví dụ, các chiến binh Palestine thường xuyên sử dụng
bom ven đường để chống lại lực lượng Israel ở Bờ Tây. Nhưng phần lớn các cuộc tấn
công của chiến binh nhắm vào quân đội Israel đều không gây ra thương vong.
Sự
mệt mỏi và vỡ mộng có lẽ đang dần hình thành trong lòng người Palestine. Các cuộc
thăm dò dư luận hồi tháng 5 cho thấy 75% người Palestine ở Bờ Tây lo ngại chiến
tranh sẽ lan sang Bờ Tây, dẫn đến sự tàn phá tương tự như ở Gaza. Dù khoảng một
nửa số người Palestine trên khắp Gaza và Bờ Tây vẫn ủng hộ quyết định tấn công
của Hamas vào ngày 07/10, nhưng tỷ lệ này đã giảm so với mức cao nhất là 72%
vào tháng 12/2023. Nhiều người Palestine vẫn tin rằng việc chiến đấu với Israel
là điều đúng đắn, nhưng sự tàn phá ở Gaza đang khiến nhiều người suy nghĩ lại về
cái giá phải trả của bạo lực.
Đối
với Hezbollah, và có lẽ cả Iran, còn một yếu tố khác: sự răn đe. Cả trước và
sau các chiến dịch năm 2024 của Israel, Hezbollah đều không muốn leo thang chiến
tranh, sợ rằng họ sẽ thua, và điều này đã xảy ra trên thực tế. Iran cũng đã tìm
cách “đi dây” trước khi xảy ra cuộc chiến 12 ngày vào tháng 6, sử dụng tên lửa
và máy bay không người lái để tấn công Israel, nhưng lại ra hiệu rằng họ muốn
tránh leo thang, thậm chí còn cảnh báo trước cho các quan chức Israel để dân
thường có thể đến nơi trú ẩn an toàn và Israel có thể chuẩn bị phòng thủ.
Rất
có thể, Israel giờ đây đã thành công trong việc răn đe cả Iran lẫn Hezbollah
không tấn công nước này, chí ít là trong một thời gian ngắn. Iran chẳng thu về
lợi ích gì khi tái diễn một cuộc chiến toàn diện với Israel. Các cuộc tấn công
khủng bố do Iran hậu thuẫn sẽ phá vỡ lệnh ngừng bắn mong manh cũng như bất kỳ
cuộc đàm phán nào hướng tới một thỏa thuận hòa bình, dẫn đến việc giao tranh
bùng phát trở lại, nhiều khả năng là với sự can thiệp sâu hơn của Mỹ.
Hezbollah, đang choáng váng vì những đòn giáng mà họ phải chịu vào năm ngoái,
đã không thể hỗ trợ Iran về mặt quân sự trong cuộc chiến bất thành với Israel.
CÁI
GIÁ CỦA THÀNH CÔNG
Các
chiến dịch tàn khốc của Israel chống lại một loạt các nhóm khác nhau và nỗ lực
khuất phục người Palestine cho đến nay vẫn hiệu quả, nhưng việc duy trì những nỗ
lực này đòi hỏi một nhịp độ hoạt động cao, vốn đang vắt kiệt sức lực của đất nước.
Quân đội Israel, vốn phụ thuộc rất nhiều vào lực lượng dự bị, không được thiết
kế cho các chiến dịch dài hơi, như những gì họ đang tiến hành ở Gaza. Israel đã
phải tăng thuế để tài trợ cho chiến tranh, và giao tranh liên miên đã tạo ra
tình trạng thiếu lao động cũng như một môi trường bất ổn cho các nhà đầu tư.
Các quân nhân dự bị Israel dần cảm thấy mệt mỏi vì bị tái triển khai liên tục
và ngày càng ghét cay ghét đắng những người Israel theo Chính thống giáo cực
đoan, những người được miễn nghĩa vụ quân sự bắt buộc, một ngoại lệ đang thúc đẩy
sự chia rẽ xã hội và chính trị.
Thương
vong của quân đội Israel cũng rất đáng kể. Hơn 400 binh sĩ Israel đã thiệt mạng
khi chiến đấu ở Gaza, và 80 người khác đã hy sinh ở mặt trận phía bắc khi giao
tranh với Hezbollah. Trong khi đó, 28 người Israel đã chết do các cuộc tấn công
tên lửa trong các cuộc giao tranh gần đây với Iran. Những con số này không thấm
vào đâu so với tổn thất quân sự mà Hamas, Hezbollah, và Iran phải gánh chịu,
nhưng vẫn là một con số lớn đối với một quốc gia nhỏ bé và nhạy cảm với thương
vong.
Số người
Israel thiệt mạng đã bị lu mờ so với số người bị Israel sát hại trên khắp khu vực
trong hai năm qua. Một vài ước tính cho rằng số thương vong mà Iran phải gánh
chịu trong cuộc chiến 12 ngày lên tới gần 1.000 người, với hàng trăm dân thường
thiệt mạng. Các cuộc không kích của Israel ở Lebanon đã khiến gần 4.000 người
chết, trong đó có nhiều dân thường, và Israel còn giết hàng chục người Yemen và
khoảng 1.000 người Palestine ở Bờ Tây kể từ ngày 07/10. Thương vong dân thường ở
Gaza rõ ràng cao hơn nhiều, với con số lên đến hàng chục nghìn người (tổng cộng,
gần 60.000 người Gaza đã thiệt mạng, bao gồm cả các chiến binh Hamas).
Ngoài
cảnh tàn sát, chính quyền Israel dường như còn theo đuổi một chương trình nghị
sự mang tư tưởng bành trướng vốn được phe cực hữu trong nước ấp ủ từ lâu. Các
hành động ở Gaza và Bờ Tây đã buộc người Palestine phải di dời hàng loạt. Ở Bờ
Tây, các hoạt động chống khủng bố tại các trại tị nạn đã trùng khớp với mục
tiêu của các chính trị gia cực hữu là trục xuất cư dân ở nơi đây, và chia cắt Bờ
Tây thành các vùng đất biệt lập, ngăn cản người Palestine thành lập một nhà nước
liền kề với họ. Nhiều người Israel có thể không quan tâm, hoặc có thể xem hành
vi của đất nước họ là một “điều ác cần thiết” trong một chiến dịch về cơ bản là
chính đáng, nhằm chống lại các nhóm khủng bố và các chính phủ ủng hộ chúng. Tuy
nhiên, danh tiếng của Israel đã giảm mạnh trên toàn thế giới, kể cả ở Mỹ. Sự sụt
giảm danh tiếng đó dù không cản trở các hoạt động của Israel ngày hôm nay,
nhưng nó có thể định hình chúng vào ngày mai.
Nguy
cơ khủng bố quốc tế cũng không nhất thiết giảm đi. Tuy Hamas chưa tấn công các
mục tiêu của Israel bên ngoài Israel hoặc các vùng lãnh thổ của Palestine,
nhưng nguy cơ bị Iran và Hezbollah tấn công vẫn còn cao. Một nghi phạm Iran đã
bị bắt giữ trong năm nay tại Đan Mạch vì tội do thám các địa điểm của người Do
Thái ở Berlin, bao gồm cả Hiệp hội Đức-Israel.
Cách
tiếp cận nặng về quân sự của Israel cũng làm giảm tính khả thi của các lựa chọn
khác. Dù vụ tấn công khủng bố ngày 07/10 đã khơi dậy một số hy vọng rằng giải
pháp hai nhà nước hoặc một giải pháp đàm phán khác có thể là kết quả cuối cùng
của việc Israel tiêu diệt Hamas, nhưng các nhà lãnh đạo và công chúng Israel
không mấy tin tưởng vào khả năng đàm phán hòa bình thành công. Mặt khác, việc
Israel phá hủy và chiếm đóng phần lớn Gaza đã khiến người Palestine càng không
muốn hòa giải và tha thứ cho Israel. Hành động của Israel ở Bờ Tây chỉ làm suy
yếu uy tín của các quan chức Chính quyền Palestine và những bên khác từng tìm
cách đàm phán với Israel.
Khi
không có giải pháp chính trị nào trong tầm mắt, Israel nhiều khả năng sẽ tiếp tục
cách tiếp cận “cắt cỏ” đối với Gaza cũng như khu vực rộng lớn hơn. Họ sẽ tập
trung vào việc hủy hoại năng lực của kẻ thù, thừa nhận rằng bất kỳ chiến dịch
quân sự nào cũng chỉ có tác dụng tạm thời và Israel cuối cùng sẽ phải làm điều
đó nhiều lần để ngăn chặn mối đe dọa tái diễn. Một chiến lược như vậy có thể
thành công trong việc bảo vệ người Israel khỏi bạo lực khủng bố. Nhưng nó chắc
chắn sẽ gây hại cho dân thường và làm giảm cơ hội đạt được một giải pháp chính
trị về lâu dài. Trong nỗ lực bảo vệ mình khỏi chủ nghĩa khủng bố, Israel sẽ tạo
ra những cuộc chiếm đóng tốn kém và những cuộc chiến vĩnh viễn, vốn làm suy kiệt
nền kinh tế, làm trầm trọng thêm chia rẽ xã hội, và làm sâu sắc thêm sự cô lập
quốc tế của nước này.
------------
Daniel
Byman là giáo sư tại Trường Dịch vụ Đối ngoại thuộc Đại học Georgetown và là
Giám đốc Chương trình Chiến tranh, Các mối đe dọa bất thường, và Khủng bố tại
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.
Nguồn: Daniel Byman, “The
Intifada That Hasn’t Arrived,” Foreign Affairs, 28/07/2025
No comments:
Post a Comment