MALAYSIA người thắng
cuộc lớn nhất trong cuộc chiến bán dẫn
Phạm Vũ Thiều Quang |
Vietnamnet
Thứ
Hai, 20/05/2024 | 14:59
https://vietnamnet.vn/malaysia-nguoi-thang-cuoc-lon-nhat-trong-cuoc-chien-ban-dan-2281637.html
CUỘC
DI CƯ BÁN DẪN
Đi
qua khu công nghệ cao Kulim, ít ai có thể bỏ lỡ cảnh tượng các nhà máy khổng lồ
mới xuất hiện hay đang được xây dựng. Nằm cách Penang 30km về phía đông, nơi từng
được mệnh danh là “Thung lũng Silicon của phương Đông” trong những năm 1970,
người dân ở đây gần như không còn ngạc nhiên khi mỗi năm lại có 2 hay 3 nhà máy
mới được khánh thành. Đem lại hàng nghìn công ăn việc làm cho 1,7 triệu người
sinh sống tại bang này, cùng với làn sóng kỹ sư từ khắp Malaysia đổ về, không
ai phàn nàn về những thay đổi nhanh chóng đang diễn ra trước mắt họ.
Mặc dù gần một chục cần cẩu và các công nhân vẫn chưa kịp rời
khỏi một trong số những nhà máy mới, bên trong đội ngũ kỹ sư đã bắt tay vào làm
việc để đạt được mục tiêu sản xuất hết 100% công suất vào cuối năm. Đây chính
là cơ sở sản xuất mới của “gã khổng lồ” công nghệ Áo AT&S, một trong những
nhà sản xuất mạch in và chất nền lớn nhất thế giới. Hai công nghệ này phục vụ
như nền tảng cho các linh kiện điện tử - trong đó có vi mạch bán dẫn – được
dùng để cung cấp năng lượng cho các hệ thống AI và siêu máy tính.
Andreas Gerstenmayer, Giám đốc điều hành của AT&S cho
biết: “Sau 20 năm đầu tư vào Trung Quốc, chúng tôi phải đa dạng hoá hoạt động
trong bối cảnh mới của ngành bán dẫn”. Việc tìm kiếm một địa điểm mới cho
AT&S bắt đầu vào đầu năm 2020, ngay khi các lời cảnh báo về loại
coronavirus nguy hiểm đang lan truyền tại Vũ Hán. AT&S đã đi đến 30 quốc
gia khác nhau trên 3 châu lục, trước khi quyết định đầu tư vào Malaysia.
AT&S chỉ là một trong số hàng loạt công ty châu Âu và Mỹ
gần đây quyết định chuyển đến hay mở rộng hoạt động tại Penang, “thánh địa” sản
xuất linh kiện điện tử của Đông Nam Á. Gã khổng lồ chip Intel của Mỹ đang đầu
tư 7 tỷ USD để mở rộng cơ sở sản xuất tại đây, tập trung vào phát triển nhà máy
đóng gói chip sử dụng công nghệ 3D đầu tiên ở khu vực. Trong khi đó, tập đoàn
Infineon của Đức cam kết sẽ đầu tư 5.4 tỷ USD vào Malaysia trong 5 năm tới.
NVIDIA, nhà thiết kế chip hàng đầu thế giới và người dẫn đầu lĩnh vực chip AI,
đang hợp tác với các tập đoàn hàng đầu Malaysia để phát triển một trung tâm
siêu máy tính và đám mây cho AI trị giá 4,3 tỷ USD. Những cái tên quen thuộc
khác trong ngành bán dẫn, trong đó có Texas Instruments, Micron, Lam Research,
Bosch, và Ericsson, cũng đang thiết lập hay mở rộng hoạt động tại quốc gia Đông
Nam Á này.
THẾ
GIỚI HƯỚNG TỚI ĐÔNG NAM Á
Bối cảnh mới của ngành bán dẫn đã khiến các quốc gia Đông Nam Á như Malaysia,
Việt Nam, và Indonesia trở thành những điểm đến đầu tư hấp dẫn trong ngành bán
dẫn – do họ đều đang hướng đến mục tiêu cân bằng giữa hai siêu cường. Căng thẳng
ngày càng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh đang làm cho hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp bán dẫn phụ thuộc vào sản xuất tại Trung Quốc ngày
càng khó khăn hơn, khiến nhiều doanh nghiệp tìm cách đa dạng hoá hoạt động ra
khỏi “công xưởng của thế giới”. Vị trí chiến lược của Đông Nam Á tại Biển Đông,
nơi 1/3 thương mại hàng hải toàn cầu đi qua, cùng với việc các chính phủ tại
đây đều đang nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài và chi phí nhân công rẻ, cho phép
hàng loạt doanh nghiệp bán dẫn mở rộng vào khu vực.
Việc tích hợp các quốc gia Đông Nam Á vào chuỗi bán dẫn
toàn cầu cũng không quá khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp như Intel hay
Infineon, do nằm trong cùng khu vực với các cường quốc bán dẫn như Hàn Quốc, Nhật
Bản, và Đài Loan (Trung Quốc), và ngay láng giềng với Trung Quốc – thị trường
tiêu thụ bán dẫn lớn nhất thế giới. Ngoài các gã khổng lồ như Intel và NVIDIA,
hầu hết các doanh nghiệp đến Đông Nam Á tập trung vào công đoạn đóng gói và kiểm
thử chip (OSAT), nằm ở vị trí thấp nhất của chuỗi giá trị và là giai đoạn cuối
trước khi những con chip được chuyển đến cho các khách hàng để sử dụng trong
thiết bị điện tử như Apple hay Huawei. Phân khúc OSAT vốn từng thống trị bởi
Đài Loan (Trung Quốc), nhưng với chi phí nhân công đắt đỏ tại đây và căng thẳng
địa chính trị gia tăng với Bắc Kinh, nhiều công ty OSAT bắt đầu nhận thấy Đông
Nam Á sẽ là một điểm đến thay thế lý tưởng.
Số
liệu tháng 2/2023; Nguồn: Financial Times
Các
công ty OSAT lớn như Amkor và Hana Micron đã khánh thành nhà máy tại Việt Nam,
trong khi Singapore đón nhận JCET và Powertech Technologies. Tại Malaysia,
UTAC, JCET và Amkor đều đã mở nhà máy trong những năm gần đây, và vào cuối năm
2022, ASE Group – công ty OSAT lớn nhất thị trường – khởi công dự án nước ngoài
lớn nhất của tập đoàn Đài Loan này tại Penang. Cuộc di cư bán dẫn đang diễn ra
đã biến Đông Nam Á trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị bán dẫn
toàn cầu, trở thành khối quốc gia xuất khẩu nhiều chip vào Mỹ nhất trong năm
2023.
TỪ
“NGƯỜI ĐI SAU” THÀNH TÂM ĐIỂM CỦA NGÀNH BÁN DẪN TOÀN CẦU
Cho
đến nay, quốc gia dẫn đầu Đông Nam Á là Malaysia, hiện đang chiếm hơn 20% tổng
thị trường xuất khẩu chip sang Mỹ. Zafrul Aziz, Bộ trưởng Đầu tư, Thương mại và
Công nghiệp Malaysia nói: “Chúng tôi coi chính sách ngoại giao trung lập của
Malaysia là điểm thu hút chính đối với các tập đoàn đa quốc gia, do họ mong muốn
tìm các đối tác nằm tại một quốc gia không bị ảnh hưởng bởi chương trình nghị sự
của các nước lớn, và không nằm trong liên minh chính trị nào”.
Việt Nam cũng đang có một cách tiếp cận tương tự Malaysia,
nhưng vẫn đang trong quá trình bắt theo sự thành công của quốc gia láng giềng
này. Malaysia đã có lợi thế tham gia vào ngành bán dẫn sớm hơn rất nhiều, từ đầu
những năm 1970, khi ngành bán dẫn toàn cầu bắt đầu xoay trục sang châu Á, ngành
bán dẫn của Malaysia đã bắt đầu cùng thời điểm với Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn
Quốc.
Năm 1972, một cánh đồng lúa nằm ở ngoại ô Penang trở thành
cơ sở sản xuất đầu tiên bên ngoài Mỹ của Intel, sau khi chính phủ Malaysia giới
thiệu những ưu đãi mạnh mẽ theo Đạo luật Khu vực Thương mại Tự do năm 1971 nhằm
thu hút các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu. Đạo luật đã tạo nên một khu vực
thương mại tự do trên đảo Penang, với các chính sách miễn thuế, xây dựng các
khu công nghiệp, nhà kho, và phát triển một hệ thống vận tải đường bộ liên kết
với cảng biển tại đây. Gần như ngay sau đó, các công ty bán dẫn như National
Semiconductors, AMD, Motorola, HP, Renesas, và Texas Instruments, bắt đầu đổ bộ
vào Malaysia.
Intel
đã có mặt tại Malaysia trong gần 50 năm qua. Ảnh: SoyaCincau
Lúc
này, mục tiêu của Malaysia chỉ là tạo công ăn việc làm cho người dân, và với
rào cản gia nhập thị trường thấp, các tập đoàn bán dẫn ngay lập tức bị cuốn hút
bởi một lực lượng lao động giá rẻ và có trình độ tiếng Anh tốt. Năm 1986, Chính
phủ Malaysia khởi xướng “Chương trình Quy hoạch Công nghiệp Tổng thể” nhằm nâng
cao khả năng sản xuất quốc gia, trong đó bán dẫn được định hướng là một lĩnh vực
chủ chốt. Ngay trước đó, Viện Hệ thống Vi điện tử Malaysia (MIMOS) đã được
thành lập trực thuộc Văn phòng Thủ tướng vào năm 1985 với mục tiêu nuôi dưỡng
ngành bán dẫn trong nước, tạo điều kiện để có những đổi mới trong ngành, và bắt
kịp thị trường toàn cầu.
Mặc dù vậy, trái với Hàn Quốc, Đài Loan, và Trung Quốc,
MIMOS đã thất bại trong việc ươm tạo bất kỳ công ty công nghệ cao bản địa thành
công nào trong ngành. Nỗ lực tìm kiếm sự tham gia trực tiếp của các doanh nghiệp
đa quốc gia như TSMC đã làm với Philips hay Samsung làm với các công ty chip nhớ
tại Mỹ đã thất bại. Trong khi TSMC đã tiên phong một lĩnh vực hoàn toàn mới
trong ngành bán dẫn – sản xuất chip, Samsung và SK Hynix nắm bắt cơ hội để thâu
tóm thị trường chip nhớ toàn cầu – Malaysia không có định hướng rõ ràng để vươn
lên trong chuỗi giá trị ngành chip.
Cùng lúc đó, sự phân biệt các nhóm chủng tộc của Chính sách
Kinh tế Mới (NEP) tại Malaysia; kéo dài 20 năm từ 1971 đến 1991; đã trở thành
rào cản lớn trong khả năng tuyển dụng nhân lực chất lượng cao của các doanh
nghiệp bán dẫn. Chính sách NEP ưu tiên việc tạo cơ hội việc làm cho người từ
nhóm sắc tộc Mã Lai trên hết, khiến cho các công ty như Intel hay AMD gặp nhiều
khó khăn khi muốn tuyển người Hoa – thường có trình độ học vấn và kỹ năng cao
hơn người Mã Lai. Không chỉ vậy, NEP cũng ngăn cản khả năng của chính phủ hỗ trợ
trực tiếp hay ưu đãi cho các công ty thuộc sở hữu của người Hoa như Carsem và
Unisem. Cả hai công ty này đều đã đạt được thành công trong việc tự chủ quá
trình lắp ráp và thử nghiệm chất bán dẫn vào giữa những năm 1980, nhưng như
TSMC và Samsung cho thấy, các doanh nghiệp bán dẫn tại châu Á không thể vươn
lên nếu không có được sự hỗ trợ từ chính phủ.
Malaysia
là một quốc gia đa sắc tộc, với người Mã Lai chiếm gần 70% dân số.
Các doanh nghiệp đang hoạt động tại Malaysia lúc đó nhận thấy
rủi ro cả trong việc đầu tư vào các hoạt động nằm phía trên chuỗi giá trị và hợp
tác với các doanh nghiệp bản địa – là quá lớn. Ngay cả khi chính sách NEP kết
thúc vào năm 1991, phần lớn các điều khoản được đặt ra trong NEP vẫn còn hiệu lực
thông qua các chính sách khác của chính phủ, và điều này đã góp phần làm cho
ngành bán dẫn Malaysia trở nên trì trệ trong những năm sau đó. Không những bị mắc
kẹt trong công đoạn OSAT, phần lớn các hoạt động đóng gói và kiểm thử chip tại
Malaysia thuộc về các doanh nghiệp đa quốc gia, thay vì các doanh nghiệp trong
nước.
Bức tranh của ngành bán dẫn Malaysia trở nên khá ảm đạm, đặc
biệt khi so với sự trỗi dậy của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc), hai người
chơi đã bắt đầu gia nhập cùng thời điểm với quốc gia Đông Nam Á này. Đầu thế kỷ
21, Malaysia lại phải đối mặt với một thử thách mới khi các trường đại học
trong nước không đào tạo được số lượng và chất lượng các nhà khoa học và kỹ sư
cần thiết cho các doanh nghiệp như Intel, AMD và Renesas – tất cả đều đang có
nhu cầu tuyển thêm nhiều kỹ sư. Giữa năm 1997 và 2007, khi xem xét tiềm năng mở
rộng hoạt động sản xuất chip sang các quốc gia châu Á, 7 tập đoàn đa quốc gia
đã đánh giá rằng Malaysia không phải là một lựa chọn hấp dẫn – và thay vào
đó, họ chọn Trung Quốc.
Nhưng đến năm 2024, bức tranh của Malaysia đã trở nên hoàn
toàn khác. Cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung bắt đầu có ảnh hưởng nặng nề đến ngành bán
dẫn, và điều này dường như đã đem lại sức sống mới cho lĩnh vực bán dẫn của
Malaysia. Các công ty OSAT đổ bộ vào quốc gia Đông Nam Á này, giúp Malaysia kiểm
soát 13% thị phần đóng gói và kiểm thử chip toàn cầu.
Nhà
máy Micron tại Penang. Ảnh: TechWire Asia
Những thay đổi trong thị trường bán dẫn cũng đã góp phần lớn
trong việc xây dựng nên một “thời kỳ hoàng kim” mới của ngành bán dẫn Malaysia.
Với các lĩnh vực như xe điện và trí tuệ nhân tạo trở nên ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế toàn cầu, nhu cầu cho các chip hiệu suất cao đã tăng mạnh. Những
con chip thế hệ mới đòi hỏi công nghệ đóng gói chip tiên tiến nhất – và các
công ty như Intel đã phát triển những công nghệ như đóng gói 3D với khả năng tự
động hoá gần như toàn bộ quy trình. Điều này cũng đồng nghĩa với việc là nguồn
nhân lực cần thiết để vận hành những nhà máy OSAT không còn đòi hỏi trình độ
cao như trước đây. Các doanh nghiệp chỉ cần những người vận hành, sửa chữa, và
giám sát quy trình sản xuất tại một địa điểm chi phí thấp và ổn định.
Và Malaysia đang là quốc gia Đông Nam Á có khả năng đáp ứng
những tiêu chí này tốt nhất. Đây là một diễn biến có thể thấy rõ trong dòng tiền
ngày càng chảy mạnh vào quốc gia này. Tổng giá trị FDI của Malaysia đạt gần 40
tỷ USD vào năm 2023, cao hơn gấp đôi tổng vốn FDI năm 2019.
KHÔNG
CHỈ PHƯƠNG TÂY, MÀ PHƯƠNG ĐÔNG CŨNG ĐẾN
Một
lí do khác khiến Malaysia thành công hơn Việt Nam, Thái Lan, hay Philippines mà
ít được nói đến, là sự thành công của họ trong khả năng thu hút một nhóm doanh
nghiệp chưa quốc gia nào trong khu vực có thể làm trên diện rộng: các doanh
nghiệp Trung Quốc.
Trong khi các công ty Mỹ và châu Âu ngày càng đa dạng hoá
hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, các công ty Trung Quốc cũng đang tái cơ
cấu chuỗi cung ứng của họ theo cách tương tự. Kể từ khi Mỹ bắt đầu áp đặt các lệnh
hạn chế công nghệ Trung Quốc dưới chính quyền Trump, và sau đó là các lệnh cấm
sâu rộng tập trung vào lĩnh vực chip dưới chính quyền Biden, Penang bắt đầu đón
nhận làn sóng quan tâm từ các công ty Trung Quốc như Fengshi. Như một phần của
chiến lược Trung Quốc + 1, nhiều công ty Trung Quốc đã bắt đầu đặt các cơ sở
nghiên cứu và sản xuất bán dẫn thứ hai sang những quốc gia láng giềng.
Dưới khuôn khổ kiểm soát xuất khẩu được chính quyền Biden đặt
ra, Washington khẳng định rằng các biện pháp hạn chế sẽ được cập nhật hàng năm
để ngăn chặn khả năng của Bắc Kinh để tiếp cận công nghệ bán dẫn tiên tiến nhất.
Đối với nhiều công ty Trung Quốc, đặc biệt là những công ty có khách hàng trên
khắp thế giới, tuyên bố của Biden phục vụ như lời cảnh cáo rằng họ cũng sẽ phải
chuyển hoạt động của mình ra khỏi đất nước. Khi xem xét kỹ, Malaysia có nhiều yếu
tố thuận lợi đối với các công ty Trung Quốc – trong đó có chi phí nhân công
ngang với Trung Quốc, vị trí địa lý thuận lợi, chính phủ thân thiện, có lẽ quan
trọng nhất là nhiều điểm tương đồng trong văn hoá kinh doanh của cộng đồng người
Hoa sinh sống tại đây.
Và Penang, bang duy nhất của Malaysia nơi người Hoa chiếm
phần lớn dân số so với người Mã Lai (45% dân số của bang), và vị trí ngay gần một
trong những cảng biển lớn nhất khu vực, cơ sở hạ tầng phát triển, khí hậu ôn
hoà, và vai trò của Penang là trung tâm sản xuất điện tử của đất nước – đã khiến
cho bang này trở thành điểm đến lý tưởng đối với các doanh nghiệp Trung Quốc.
Theo Loo Lee Lian, Giám đốc điều hành của Invest Penang – tổ
chức quảng bá và thu hút đầu tư vào chính quyền bang này – hiện có 55 công ty
bán dẫn Trung Quốc đang hoạt động tại Penang, gia tăng đáng kể so với 16 công
ty Trung Quốc làm việc tại đây trước khi cuộc đàn áp thương mại của Mỹ bắt đầu.
Hầu hết phụ thuộc vào thiết bị được cung cấp từ khắp thế giới hoặc có phần lớn
khách hàng đến từ các quốc gia phương Tây, và sẽ mất quyền tiếp cận thiết bị và
khách hàng nếu không mở rộng ra khỏi Trung Quốc trước khi Mỹ tăng cường các lệnh
cấm. Các hạn chế của Mỹ hiện nay chưa áp dụng cho các dịch vụ đóng gói chip
tiên tiến – lĩnh vực phần lớn các doanh nghiệp Trung Quốc tại Penang đang làm
việc – nhưng họ lo lắng rằng sẽ có ngày Washington quyết định “đánh” Bắc Kinh mạnh
hơn nữa.
CÁC
THỬ THÁCH TIỀM TÀNG
Mặc
dù vậy, Malaysia đang gặp phải một thử thách lớn mà Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt
trong những năm tới. Với sự mở rộng của ngành bán dẫn vào quốc gia Đông Nam Á
này, nhu cầu nhân lực đã tăng mạnh trong 2 năm qua, làm trầm trọng tình trạng
thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật của Malaysia. Trò chuyện với Financial
Times, ông Zafrul, Bộ trưởng Đầu tư, Thương mại và Công nghiệp Malaysia nói
rằng “chỉ riêng lĩnh vực điện tử của đất nước đã cần đến 50.000 kỹ sư, nhưng
công suất đào tạo của các trường đại học trong nước hiện chỉ cho phép 5.000
sinh viên kỹ thuật tốt nghiệp mỗi năm”.
Và nhiều người trong số này mong muốn rời khỏi Malaysia để
sang làm việc tại Singapore láng giềng – nơi ngành bán dẫn cũng đang phát triển
mạnh, và có thu nhập trung bình cao gấp 8 lần. Mức lương cho kỹ sư bán dẫn, đặc
biệt là đối với các sinh viên mới tốt nghiệp, vẫn thấp hơn hầu hết các lĩnh vực
chuyên môn khác tại Malaysia, và các chuyên gia trong nước nói rằng Malaysia vẫn
còn thiếu chuyên môn cần thiết để vươn lên vị trí front-end của chuỗi giá trị
bán dẫn.
Cùng lúc đó, chi phí hoạt động tại Penang cũng đã tăng mạnh
trong 2 năm qua. Theo Financial Times, giá đất công nghiệp tại đây đã tăng từ
khoảng 500 RM (2,7 triệu VND)/mét vuông, lên tới 850 RM (4,9 triệu VND) vào năm
2024, và tốc độ tăng giá nhà tại Penang trong nửa đầu năm 2023 đứng thứ hai
châu Á, chỉ sau Singapore – một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới. Đối
với nhiều kỹ sư bán dẫn đang sinh sống và làm việc tại đây, mức lương của họ chỉ
vừa đủ để chi trả chi phí sống – chưa nói đến tiết kiệm.
Malaysia cũng dường như đang phải đối mặt với một bài toán
đã gặp phải từ trước đây – làm cách nào để vươn lên trong chuỗi giá trị bán dẫn
toàn cầu. Ngay cả với làn sóng doanh nghiệp đến từ Trung Quốc, phần lớn các
công ty này đều nằm tại cuối chuỗi giá trị, trong khi các công ty thiết kế và sản
xuất của Trung Quốc như HiSilicon và SMIC vẫn giữ toàn bộ hoạt động trong nước.
Chính phủ Malaysia đã bắt đầu phát triển một hệ sinh thái bán dẫn nhằm nuôi dưỡng
các doanh nghiệp trong nước, nhưng sự hỗ trợ hai doanh nghiệp dẫn đầu ngành –
Inari và Globetronics – có được chưa là gì so với TSMC và Samsung nhận được từ
chính phủ của họ vào những năm 1980.
Các chuyên gia tại Malaysia, trong đó có Tan Eng Kee, nói rằng
chính phủ Malaysia “cần tập trung hơn” trong việc ươm tạo các “nhà vô địch bản
địa” và nâng cao mức lương hiện hữu. Ông nói “Tại Đài Loan và Hàn Quốc, những
người làm việc cho TSMC, Pegatron, hay Samsung vô cùng tự hào rằng họ góp phần
cho sự thành công của doanh nghiệp”. Để Malaysia có thể vươn lên, có lẽ chính
phủ sẽ phải bắt tay vào quá trình kiến tạo văn hoá làm việc này.
Con đường của Malaysia, dù đã có những bước đi ban đầu thuận
lợi, cũng không hoàn toàn tươi sáng. Vì vậy, cơ hội cho những người chơi mới
khác, như Việt Nam, gia nhập cuộc chơi này không quá hẹp, dù cạnh tranh với
Malaysia là một bài toán cũng không mấy đơn giản.
Xem bài 1: Ngược dòng Nhật Bản và cuộc chiến bán dẫn đầu tiên với Mỹ
Xem bài 2: Hàn Quốc và câu chuyện nắm bắt cơ hội thị trường bán dẫn
Xem bài 3: Đài
Loan và câu chuyện thần kỳ TSMC
Xem bài 4: Trung
Quốc: Tìm thế chủ động trong cuộc chiến bán dẫn
Thiết
kế: Minh Hoà
No comments:
Post a Comment