Không ít người đến nay vẫn
lấy làm tiếc vì chính phủ Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội khi không đoái hoài gì đến những
lá thư của Hồ Chí Minh gởi TT Truman và Bộ Ngoại Giao Mỹ.
TT Truman không trả lời
nhưng có kiểm chứng.
Mặc dù Mỹ đã có tài liệu
và bằng chứng Hồ Chí Minh là lãnh tụ CSVN và là nhân viên của Đệ Tam Quốc Tế,
những lá thư của Hồ không phải vì thế mà được tự động đưa vào văn khố. Chính phủ
Mỹ qua trung gian tòa đại sứ Mỹ tại Paris trực tiếp liên lạc với Hồ.
Như người viết đã trình
bày trong Chính Luận, theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm
11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày
28 tháng Hai năm 1946.
Ngày 12 tháng 9 năm 1946,
George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện
đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ
Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh
không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, Hồ còn chỉ ra cho George
M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.”
Trong thực tế, các chức vụ
then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ
trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các
liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ (ngoại vi của
đảng CS) nắm giữ.
Khi George M. Abbott hỏi
có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có
nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George
M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.
Với đảng CS, việc thay
tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời
kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng
tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời
điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí
Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc
chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.
Mỹ không đánh giá cao
tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa dân tộc trong người Hồ Chí Minh. Hầu hết các đảng
CS từ Á sang Phi đều núp dưới bình phong “giải phóng dân tộc”.
Bản thân hai tổng thống
Franklin D. Roosevelt và người kế nhiệm là Harry Truman đều là những người có cảm
tình với các dân tộc bị trị.
TT Franklin D. Roosevelt
là người đã khẳng định việc tôn trọng quyền tự quyết dân tộc của các quốc gia
như ông đã đề ra trong Hiến Chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) tháng 8,
1941.
Ngày 24 tháng 1, 1944, TT
Roosevelt khẳng định lần nữa ước muốn của ông để đặt Đông Dương dưới sự quản trị
của quốc tế thay vì trả lại cho Pháp.
TT Roosevelt viết: “Tôi gặp
Halifax [Ngoại trưởng Anh] tuần trước và nói với ông ta một cách thẳng thắng rằng
một điều hoàn toàn đúng là hơn một năm trước tôi đã bày tỏ ý kiến Đông Dương
không nên trả lại cho Pháp mà đặt dưới sự quản trị của một cơ quan ủy thác quốc
tế (international trusteeship). Pháp đã chiếm dân tộc này, với ba chục triệu
người, gần cả thế kỷ, và điều kiện của người dân còn tệ hại hơn lúc bắt đầu.
(Tài liệu Mật Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, giải mật 2011 theo Quyết Định Tổng Thống
13526).
Trong cùng tài liệu, TT
Roosevelt cũng viết một câu cảm động “Pháp đã vắt sữa các dân tộc Đông Dương suốt
một trăm năm và người dân của các nước Đông Dương xứng đáng được sống một cuộc
sống tốt đẹp hơn.” (France has milked it for one hundred years and people of
Indo-china are intitled to something better than that).
TT Truman kế nhiệm đã
chia xẻ quan điểm TT Roosevelt. Trong thời gian sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm
dứt, TT Truman nghiêm cấm các tàu bè Mỹ giúp chở quân đội và võ khí của Pháp để
tái chiếm Viêt Nam. Chính phủ Anh, vì quyền lợi của một đế quốc thực dân đã
thông đồng để đưa Pháp trở lại Việt Nam.
Ngay trong lúc Hồ Chí
Minh nói với George M. Abbott không có một đảng viên CS nào trong chính phủ thì
Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn và Văn Thừa Vũ đang ra tay tận diệt các đảng
phái không CS như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt v.v.. Vụ Ôn Như Hầu tiêu diệt
Việt Nam Quốc Dân Đảng vào tháng 8, 1946 là một bằng chứng.
“Cuối tháng 5 [1946] khi
quân đội Trung Quốc bắt đầu rút hết ra khỏi Việt Nam, Võ Nguyên Giáp ra lệnh
cho các lực lượng Việt Minh tấn công vào các cánh quân quốc gia tại miền Trung,
tiêu diệt số lực lượng nhỏ nhoi của các đảng quốc gia tại vùng này.” (Lê Mạnh
Hùng, Nhìn Lại Sử Việt, thời cận hiện đại 1945-1975, chương 6).
Các vụ tàn sát các đảng
phái quốc gia chống thực dân diễn ra suốt 1946 không chỉ riêng tại Hà Nội, miền
Bắc mà cả nước. Một chương sử đầy máu xương và hận thù trên đất nước Việt Nam vốn
đã chịu đựng gần một trăm năm dưới gót thực dân bắt đầu từ đó.
Lịch sử không có “nếu”
nhưng cần phải đặt lại những “nếu” để đọc, để ôn, để học và để đi về phía trước
là trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam yêu nước ngày nay.
Chữ “nếu” lớn nhất là với
xu hướng giải thể chế độ thực dân sau Thế Chiến Thứ Hai, sự suy yếu của Pháp,
quyết tâm ủng hộ của các TT Mỹ, nếu không có đảng CSVN thì ngày nay Việt Nam
không phải mất đất, mất biển, lệ thuộc mọi thứ vào Trung Cộng mà là một quốc
gia dân chủ giàu mạnh, đứng oai hùng và đầy kiêu hãnh như bên bờ Thái Bình
Dương.
Trần Trung Đạo
Bài đăng trên Page Chính
Luận:
https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/posts/541310906503423
https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/posts/541310906503423
No comments:
Post a Comment