Wednesday, August 18, 2010

CẦN CÔNG KHAI và CHÍNH DANH HÓA ĐỒNG MINH VỚI HOA KỲ

Cần công khai và chính danh hóa đồng minh với Mỹ

http://www.danchimviet.com/archives/16475

Không phải tới ngày hôm nay, người Việt Nam, trong đó có cả đảng cộng sản Việt Nam, mới tìm kiếm một mối quan hệ Đồng minh bền vững với Mỹ. Trước hết, từ lâu, quy tắc thần phục Trung quốc không đem lại điều gì tốt đẹp.

.

Thần phục Trung quốc là sai lầm

Bất kỳ người Việt Nam nào, với một sự khao khát vượt lên, mỗi khi nhìn lại toàn bộ lịch sử dân tộc mình, đều cay đắng cam chịu một số phận cay nghiệt, đó là sự khống chế không bao giờ buông tha của thế lực bành trướng Trung quốc. Nếu Trung quốc suốt mấy ngàn năm không đạt được mục đích xóa biên giới, biến Việt Nam thành châu quận của họ, thì Việt Nam cũng chưa bao giờ được Trung quốc cư xử như một quốc gia độc lập và bình đẳng.

Một nước Việt Nam giàu có, hùng mạnh và độc lập tự quyết là không thể chấp nhận được với hệ thống cầm quyền Trung quốc thuộc mọi thế hệ.

Trung quốc “giúp đỡ”, “viện trợ”… chỉ để Việt Nam phải phụ thuộc, và thông qua viện trợ để thọc sâu cánh tay vào nội tình Việt Nam, với mục đích kiểm soát và thao túng.

Việt nam có thể thành món hàng để mặc cả, buôn bán với các thế lực đối thủ của Trung quốc. Việt Nam có thể trở thành bia đỡ đạn, kẻ khiêu khích, là tên đầu sai đốt lửa gây chiến hay châm ngòi xung đột, một dụng cụ thăm dò, một thứ thuốc thử trong tay Trung quốc.

Đó là bản chất mối quan hệ “anh em” mà Trung quốc dành cho Việt Nam.

Chiếm hoàn toàn, hay biến Việt Nam thành một thứ công cụ, đó là chính sách từ hàng nghìn năm, vẫn đang là chính sách của đảng cộng sản, và muôn đời sẽ vẫn thế, không có gì thay đổi, nếu Trung quốc không trở thành một quốc gia dân chủ thật sự. Định mệnh đã xếp đặt Việt Nam bên cạnh một quốc gia tham lam, bần tiện, thâm độc và tàn bạo như Trung quốc.

Cái nỗi khổ làm láng giềng với Trung quốc đã đeo đuổi tổ tiên dân tộc Việt Nam, đã làm hao tổn bao nhiêu trí lực Việt Nam, gây chia rẽ, chém giết lẫn nhau bao đời giữa những người Việt Nam với nhau. Quy tắc tồn tại bên cạnh một con hủi, hay bên cạnh một con quỷ, đã tạo nên một loại logic trí khôn của Việt Nam là “quy phục để an phận”. Ông cha ta bao đời đã như vậy. Đánh cho chúng không có đất chôn, đánh cho chúng không còn mảnh giáp, nhưng “chúng” đi rồi thì cha con lại lóc cóc gồng gánh, lặn lội trèo đèo lội suối đi triều cống, mong láng giềng buông tha cho yên phận làm ăn. Và người Việt Nam gọi đó là Trí khôn “quyền biến”, là sự khéo léo,uyển chuyển . Qua nhiều đời, khi vẫn chưa có lối thoát nào khác, thì loại Trí khôn này được coi là đương nhiên, bất khả tranh cãi, một thứ lý như một thứ tiên đề trong toán học, mặc nhiên công nhận mà không phải chứng minh.

Đến bây giờ vẫn vậy, “thân thiện với Trung quốc” vẫn được coi là tiêu chuẩn để định giá một đường lối. Người ta vẫn sợ, nếu chủ trương thân thiện với các cường quốc khác một cách lộ liễu, công khai, sẽ làm phật ý Trung quốc, sẽ làm Trung quốc nổi giận, sẽ hứng chịu tai họa, sẽ là kém “khôn ngoan”. Và, chỉ vì sợ không được coi là “khôn ngoan” mà ngay cả các học giả uyên bác cũng cố gắng chèo kéo mấy chữ “đi bằng hai chân”, “bắt cá hai tay”, hay “làm bạn với tất cả “. Thực chất chỉ là sự che đậy một nỗi sợ thâm căn cố đế, bởi không một ai trong chính những người này tin rằng, bằng một sự cam chịu, nhẫn nhục, một cố gắng bộc lộ lòng trung thành vô hạn, Trung quốc sẽ buông tha cho Việt Nam tự do phát triển trong an toàn và tự chủ.

Sự trung thành với chủ nghĩa cộng sản của đảng cộng sản Việt Nam thực chất là sự tôn thờ vai trò của cầm đầu Quốc tế cộng sản của Trung quốc, một thứ vai trò mà Trung quốc đã mất bao nhiêu năm giành giật với nước Nga của Lê nin và Liên bang Xô viết của Staline. Một thứ ràng buộc trên danh nghĩa lý tưởng, hòng tìm kiếm chỗ dựa chính danh, trong khi chính Trung quốc, bằng chiêu sách “Ba đại diện”, đã khôn khéo vượt ra ngoài vòng luẩn quẩn và phi lý của lý luận Cộng sản.

Nhưng cả với sự tôn thờ tận tụy đó, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không được Đảng cộng sản Trung quốc ban cho mơ ước ảo tưởng về một mối quan hệ “môi hở răng lạnh”. Mao đã mặc cả với Nixon về số phận của Việt nam năm 1972, bật đèn xanh cho cuộc ném bom rải thảm trên miền Bắc, kiếm chác sự làm ngơ của Mỹ để Trung quốc chiếm nốt nửa Hoàng Sa từ tay Sài Gòn năm 1974. Là đồ đệ thứ hai sau Bắc Triều tiên, trong số 4 nước cộng sản còn lại trên cả Địa cầu, nhưng Việt Nam đã bị đàn anh cho bài học với 30.000 người chết tại chiến tranh biên giới năm 1979, cuộc chiến chiếm đoạt quần đảo Trường sa, bắn chìm hai tàu chiến và giết hại 64 chiến sĩ, năm 1988…v.v.

Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đã cố ghép mình vào cùng phe với Trung quốc để được gọi là Đồng minh, và trông chờ “ơn trên” về một cơ chế đồng minh có thật, khả dĩ yên phận. Nhưng sự thật đã chứng minh ngược lại. Đảng cộng sản Việt Nam càng cam chịu, càng nhẫn nhục, thì Trung quốc càng lấn tới. Sự né tránh những khu vực và vấn đề “nhạy cảm” đã tạo chỗ trống và cơ hội cho Trung quốc tự do hành động. Đấy chính là thủ đoạn, là “mưu lược” của “trí khôn” Trung hoa. Và đấy chính là cái “Tiểu nhân” của người khổng lồ Trung quốc. Cái “tiểu nhân” khổng lồ ấy cuối cùng đã “làm thịt” cái “bao dung đại lượng” của thằng “Bờm” cộng sản Việt nam.

Một chính sách dĩ hòa vi quý với Trung quốc, luồn lách, lươn lẹo để tránh đòn theo cái kiểu khôn vặt, thiếu thực chất và giả dối đã không đem lại kết quả, bất kể những cố gắng liên tục và bền bỉ từ đời này sang đời khác. Dù không muốn có và khộng muốn tin, thì “kẻ thù trực tiếp và thường xuyên của dân tộc Việt Nam” vẫn là Trung quốc. Sự thật cay đắng này chỉ có thể biến mất khi Trung quốc cộng sản tan rã và thay bằng một Trung quốc Dân chủ. Đảng cộng sản Trung quốc đã khôn khéo biến hình để mãi mãi là Đại diện chính đáng và hợp thức của dân tộc Trung hoa, nghĩa là sẽ không bao giờ Đảng cộng sản Trung quốc tự từ bỏ vai trò đại diện độc nhất của mình, bất kể Trung quốc theo hay không theo lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Giá mà bê được đất nước Việt Nam đi chỗ khác! Giá như không có “núi liền núi, sông liền sông” với Trung quốc!

Một chính sách tồn tại bên cạnh Trung hoa, một con đường lâu dài cho dân tộc Việt Nam thoát ra ngoài mọi ảnh hưởng lệ thuộc Trung quốc là khát vọng nung nấu bao đời của tinh hoa Việt Nam, từ Hai Bà Trưng, cho đến Lý Thường Kiệt, từ Trần Hưng Đạo đến Lê Lợi, Quang Trung.

Hồ Chí Minh cũng đã nghĩ tới việc tìm kiếm một quan hệ Đồng minh lâu dài với Mỹ ngay từ cuộc gặp gỡ với tướng Claire Chennault, Tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ, ngày 29/03/1945. Và trong thư gửi tổng thống Hoa Kỳ tháng 2/1946, Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu của Việt Nam “là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”.

Tư tưởng thoát khỏi Trung quốc luôn là một tư tưởng thường trực trong nội bộ lãnh đạo của đảng cộng sản, chia đảng thành hai lực lượng xung đột, đối kháng, đan xen, ẩn hiện, khi lấn át, lúc thu mình. Đã bao người bị gạt ngã trên đường. Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách, Trần Quang Cơ,…

Nhưng có lẽ đã đến lúc?

Từ xa xưa, người Nhật đã dám và đã biết thoát khỏi Trung quốc. Mà thoát ra khỏi Trung quốc, trước hết là thoát ra khỏi đạo lý thần phục thiên tử vô điều kiện của Khổng tử. Hoàng đế Nhật mỗi lần phải gửi văn thư cho Trung quốc đều ghi: “Thiên tử nước Mặt trời mọc gửi thiên tử nước Mặt trời lặn”. Người Trung quốc nổi giận, nhưng không làm được gì, lâu dần thành quen. Người Việt nam đã “hèn” hơn người Nhật. Đáng lẽ các hoàng đế Đại Việt cũng có thể nói: “Hoàng đế Đại Việt thỉnh Hoàng đế Đại Hán khán hạ”. Có lẽ vì thế mà Nhật bản từng chiếm cả miền Đông Bắc của Trung quốc, lập thành quốc gia Mãn Châu, cai trị đảo Đài loan 50 năm, từ 1985 tới 1945, còn Việt Nam thì Trung quốc bắn chết ngư dân, cướp tàu đánh cá, chiếm đảo, lấn đất… vẫn làm ngơ, giả mù, giả câm, giả điếc.

Cho nên, giải pháp Đồng minh với Hoa Kỳ có đầy đủ tính Chính nghĩa.

.

Phải công khai và Chính danh hóa quan hệ Đồng minh với Mỹ

Ngày 22/07/2010 Bộ trưởng Ngoại giao Hoa kỳ Hillary Clinton đến Hà Nội, gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Gia Khiêm và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trước khi tham dự diễn đàn Ngoại giao ASEAN ngày 23/07, và tuyên bố tại hội nghị này rằng: “Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc bảo đảm an ninh và tự do đi lại trên biển Đông”.

Cùng ngày, trong buổi tiếp kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Ngoại trưởng Hillary Clinton chính thức thông tin là bà sẽ trở lại Việt Nam để dự Hội nghị cấp cao ASEAN vào tháng 10 tới và cũng là để chuẩn bị cho chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama vào năm 2011. Bà cho biết: “Tổng thống Obama và bà sẵn sàng cam kết đưa quan hệ hai nước lên tầm cao hơn dựa trên sự hợp tác và đối thoại, tin tưởng tiềm năng hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, y tế… giữa hai nước còn rất lớn, quan hệ hợp tác hai nước sẽ tiếp tục phát triển”.

Bản tin sáng 8/8 của AP cho biết, tàu sân bay USS George Washington – tàu lớn nhất và là niềm tự hào của quân đội Mỹ thuộc biên chế Hạm đội Thái Bình dương đóng căn cứ tại Nhật Bản, đã đỗ lại ngoài khơi Việt Nam, vùng biển giáp Đà Nẵng.

Ngày 8/8, nhận lời mời của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, đoàn cán bộ liên ngành của Việt Nam đã có chuyến thăm tàu USS George Washington đang ở ngoài khơi Việt Nam trên vùng biển giáp TP Đà Nẵng.

Hôm thứ Năm, 05/08/2010, báo Wall Street Journal loan tin Hoa Kỳ đang trong giai đoạn đàm phán “cấp cao” để chia sẻ công nghệ hạt nhân với Việt Nam, trong đó có điều khoản mà sẽ cho phép Hà Nội tự mình làm giàu uranium.

Ngày 10/08/2010 Khu trục hạm USS John S.McCain (DDG – 56) tới Đà Nẵng. Đây là một trong những hoạt động kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ. Về mặt chính thức, chuyến viếng thăm của các chiến hạm Mỹ lần này nằm trong khuôn khổ đợt kỷ niệm 15 năm bình thường hóa bang giao, thể hiện mối quan hệ quân sự ngày càng chặt chẽ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Nhưng theo các nhà quan sát, chuyến viếng thăm này có ý nghĩa đặc biệt vì nó diễn vào lúc căng thẳng với Trung Quốc gia tăng trên vấn đề biển Đông.

Những tin tức và sự kiện như vậy đã làm nức lòng người dân Việt Nam cả trong và ngoài nước. Hà Nội đã thắng chính bản thân mình. Hà Nội đã vượt lên trên nỗi lo sợ truyền kiếp. Trí khôn Việt Nam đã hạ “đo ván” lòng tham vô đáy Trung quốc. Sự ngạo mạn quen thói Thiên triều đã làm cha con Trung Nam Hải cay đắng thất bại. Bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Dương Khiết Trì hoàn toàn bị bất ngờ, lồng lộn, nhưng bất lực bỏ ra ngoài phòng họp. “Trung quốc là một nước lớn, và các nước ASEAN là các nước nhỏ, đó là một thực tế“- ông ta đã hằn học đe dọa như vậy, và ngày hôm sau trên website bộ Ngoại giao Trung quốc còn vớt vát: “Hậu quả sẽ là gì nếu vấn đề này chuyển sang đa phương hay quốc tế hoá”?- “Nó chỉ làm cho vấn đề tồi tệ hơn và việc giải quyết vấn đề khó khăn hơn”.

Âm mưu tách từng cây đũa, đánh từng nước một với chiêu bài song phương đã bị Hà Nội vô hiệu hóa. Với khẳng định “có lợi ích quốc gia”, Mỹ sẽ công khai can dự và gắn kết trách nhiệm tại Đông Nam Á và Biển Đông. Sự hiện diện của Mỹ chắc chắn là một đảm bảo cho sự cân bằng cần thiết trong khu vực mà Trung quốc đang đẩy tới bờ vực khủng hoảng.

Sự có mặt của Mỹ tại Đông Nam Á và sự phát triển tốt đẹp đầy triển vọng của mối quan hệ chiến lược giữa Hoa kỳ và Việt Nam

Cách đây một năm, gọi bang giao Việt Nam- Hoa kỳ là “quan hệ đối tác chiến lược” còn là điều húy kỵ. Nhưng trong dịp kỉ niệm 15 năm ngày bang giao Việt-Mỹ, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao và các học giả hai bên đều thấy đã đến thời điểm thích hợp và chín muồi để nâng cấp mối quan hệ đối tác này. Một số nhà nghiên cứu được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách cũng nhất trí phải chính thức “công khai hóa” bang giao Việt Mỹ thành “Đối tác chiến lược”.

Phía Mỹ ở một cấp độ chính thức, từ đầu năm 2010 đến nay cũng đã liên tiếp bày tỏ thái độ quan tâm đến việc thúc đẩy quan hệ Mỹ- Việt. Trợ lý ngoại trưởng Kurt Campbell chuyên trách các vấn đề Đông Á phát biểu thay mặt bộ Ngoại giao Mỹ trong buổi lễ kỷ niệm mới đây: “Khi nhìn vào tất cả các quốc gia bè bạn ở Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chúng tôi có triển vọng sáng sủa nhất trong tương lai với Việt Nam“.

Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa John McCain cho rằng: “Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không đơn thuần là mối quan hệ bình thường mà phát triển sâu rộng và mạnh mẽ. Trên thực tế, Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng, tiềm năng nhất của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương“.

Không còn lý do gì để che đậy việc Chính danh hóa rộng rãi với toàn thể nhân dân hai nước và thế giới về mối quan hệ Đồng minh thân thiện giữa hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ. Một tuyên bố chính thức như vậy sẽ làm nức lòng người dân Việt Nam, tạo thế chính đáng cho ngay chính những nhân tố tích cực và cách mạng trong nội bộ đảng cộng sản, đập tan mọi mưu đồ và hành vi quấy phá của phe phái sợ Tàu bạc nhược.

Chính nghĩa khi được lòng dân và hợp với lòng dân.

Một cuộc trưng cầu dân ý sẽ khẳng định tinh chính đáng của một đường lối.

Bằng trưng cầu dân ý để công khai loại bỏ những phần tử có tư tưởng phản dân ra khỏi đảng, ra khỏi bộ máy chính quyền.

.

Không có gì phải sợ

Công khai tuyên bố chính sách Đồng minh với Mỹ, đương nhiên sẽ phải từ bỏ đường lối ngụy biện “làm bạn với tất cả”. Trên thực tế, trong một thế giới phân cực, quyền lợi và an ninh quốc gia đối đầu, không thể cùng lúc làm bạn với tất cả. Đó là một ảo tưởng, một sự tự mê hoặc hay tự lừa dối. Không thể cùng lúc vừa là đồng minh của Mỹ, vừa là “anh em” với Trung quốc. Vả lại, trên thế giới, Trung quốc đã chơi với ai như anh em? Với Trung quốc, chỉ có thể hoặc là kẻ thù, hoặc là chư hầu, không có loại nào gọi là “anh em”.

Lẽ đương nhiên, bao nhiêu năm kiên trì đường lối “anh em” với Trung quốc mà còn bị xử bằng súng đạn và bằng máu, thì khi công khai “lập trường” như việc “đa phương hóa biển Đông” vừa rồi, và chuyện “đồng minh chiến lược” với Mỹ hôm nay, sẽ không thể có chuyện Bắc kinh bỏ qua. Nhưng, trước đây khác, bây giờ khác.

Nhật bản, một kẻ thù truyền kiếp thâm căn cố đế của người Trung quốc, có thể được gọi là “không đội chung trời”, mà Trung quốc bao nhiêu năm vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt.

Nam Hàn, Đài Loan, bao nhiêu năm như cái gai trước mắt Đại lục cộng sản, mà vẫn an toàn, phát triển và thịnh vượng trong dân chủ.

Trung quốc đã không dám và không thể sử dụng chiến tranh để trả mối hận danh dự hay thỏa mãn máu tham bành trướng đối với những quốc gia lân cận và nhỏ bé này. Không phải Trung quốc không đủ sức mạnh. Căn nguyên là bên cạnh và phía sau các quốc gia này là Mỹ và Trung quốc không thể thắng Mỹ, vĩnh viễn không bao giờ có thể thắng Mỹ.

Trung quốc sẽ không thể gây chiến với Việt Nam, không thể dùng vũ lực để trả đũa Việt Nam, để trừng phạt và “dạy bài học” như từng làm trước đây.

Trên thực tế, chiến tranh không thể xảy ra khi cả hai bên đều có khả năng hạt nhân, kể cả khi năng lực không đồng đều, thậm chí hoàn toàn áp đảo của một phía. Lý do đơn giản là khả năng huỷ diệt của hạt nhân là không thể tránh khỏi cho bất cứ ai, và nguy cơ phản ứng dây chuyền của cuộc chiến là qúa lớn, vì dù chiến tranh bắt nguồn và băt đầu từ đâu, thì gốc rễ vẫn liên quan tới cường quốc. Và chiến tranh thế giới khó có thể tránh được.

Việt Nam phải có vũ khí hạt nhân. Chỉ bằng cách sở hữu hạt nhân Việt Nam mới có bình đẳng với Trung quốc. Chỉ có sẵn sàng chiến tranh mới có hòa bình với Trung quốc. Đó là sự thật và cũng là chân lý.

Và chỉ trở thành Đồng minh với Hoa Kỳ, Việt Nam mới có khả năng đạt tới mục tiêu tự vệ hạt nhân của mình. Không có lựa chọn thứ hai. Không thể là Nga. Và cũng không thể là Ấn độ.

Lý do gì để ai đó trong bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam run sợ? Người Việt Nam không sợ. Trong lịch sử, người Việt Nam đã từng sẵn sàng đánh xâm lược phương Bắc tới người cuối cùng. Chúng ta là nước nhỏ bé. Nhưng chúng ta chưa từng biết run sợ.

Những kẻ sợ hãi đâu đó chỉ có thể là những kẻ đang được “Thiên triều nuôi dưỡng”, vì nếu Thiên triều đang cho sống, thì cũng có thể sẽ cho chết. Phàm đã là vật nuôi thì cỏ thể sẽ bị làm thịt. Với những người khác, “thiên triều” sẽ bất lực. Với cả dân tộc Việt Nam, thì càng vô nghĩa!

Tình Hữu nghị Việt Nam Hoa kỳ Muôn năm !

17/08/2010

Bùi Quang Vơm.

.

.

TS Cù Huy Hà Vũ: Ðồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại

http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam-china-us-07-24-2010-99174314.html

.

.

.

No comments: