Ngaire Woods - Project
Syndicate
26/02/2018
Sau
nhiều thập niên phục vụ như là cột trụ chính cho một trật tự toàn cầu dựa trên
các luật lệ, trong thời của Tổng thống Donald Trump, Hoa Kỳ đang cố thu phục
dân chúng bằng một nghị trình "ưu tiên cho nước Mỹ" nhằm ca tụng về một
tinh thần dân tộc theo quan điểm kinh tế hẹp hòi và bất tín nhiệm các định chế
và hiệp định quốc tế. Tuy nhiên, một loại mô hình mới về hợp tác quốc tế có thể
đang thành hình - một khuôn mẩu đang hoạt động xung quanh ông Trump.
Chắc chắn một điều là khi chính quyền của
ông Trump tiếp tục bác bỏ các mô hình hợp tác đã thành hình từ lâu, mối nguy cơ
về sự ổn định toàn cầu ngày càng trở nên nghiêm trọng. Lấy ví dụ như tại cuộc
họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos hồi tháng trước, Steven
Mnukuch, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ, đã nói về vai trò tích cực của đồng đô la yếu
hơn như là một cách để thúc đẩy cho thương mại của Mỹ.
Đối
với một quốc gia dựa vào nhu cầu của nước ngoài do các đồng đô la mạnh và công
khố để tài trợ cho việc thâm hụt đang ngày càng nhiều, thì đây là một viễn cảnh
quá liều lĩnh. Hơn nữa, nó đạt tới một sự phản bội của các lời cam kết lâu dài
của Hoa Kỳ để duy trì một hệ thống tiền tệ dựa trên các luật lệ mà nó không
khuyến khích cho việc phá giá tiền tệ đang cạnh tranh.
Rex Tillerson, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã
tán dương sự hồi sinh của học thuyết Monroe trong chính sách đối ngoại - một khái niệm vào
thế kỷ XIX để khẳng định về ưu thế của Mỹ ở Tây Bán cầu nhằm mục đích ngăn chặn
các đối thủ cạnh tranh ở châu Âu - tại Trung và Nam Mỹ để kiềm chế ảnh hưởng của
Trung Quốc đang ngày càng gia tăng. Hồi tưởng của Tillerson về một khái niệm
vào năm 1823 đã không được phía nam của biên giới quan tâm chia sẻ, nơi có một
nhà bình luận tại Mexico đã chỉ ra rằng học thuyết Monroe là "nhằm biện
minh cho các can thiệp của ngoại bang" và nơi mà sự tham gia ngày càng
tăng của Trung Quốc được coi như là một đối trọng với Hoa Kỳ.
Chính
quyền của ông Trump cũng đã công bố một chính sách về hạt nhân mới và hung hãn
hơn. Trong việc tái duyệt xét về cơ sở hạt nhân, ông đã đề xuất sử dụng
các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân để đối phó với các mối đe dọa không phải
là do vũ khí hạt nhân và triển khai các thiết bị hạt nhân mới có hiệu năng thấp
do tàu ngầm cung cấp, một loại bom có sức công phá tương đương với những quả
bom đã phá hủy Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945. Theo như lời của James
Mattis, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chính sách này nhằm thuyết phục các đối thủ rằng
"trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân, họ không đạt được gì và thua thiệt mọi
thứ" - rốt cuộc là một
sự đảo ngược về vai trò lãnh đạo Hoa Kỳ từ 40 năm nay trong việc giảm các kho
chứa hạt nhân và khuyến khích việc không phổ biến các loại vũ khí hạt nhân.
Không
có gì ngạc nhiên khi các nước khác mất đi nhanh chóng về niềm tin nơi nước Mỹ
như là một đối tác lâu dài và thành một nhà lãnh đạo mà họ ít đáng tin cậy.
Theo một cuộc thăm dò của Viện Gallup trong 134 quốc gia, niềm tin nơi sự lãnh
đạo của Hoa Kỳ đã giảm mức trung bình từ 48% trong năm 2016 xuống còn 30% trong
năm 2018, giảm mạnh đến 40 điểm hay nhiều hơn nửa là ở Canada, Bồ Đào Nha, Bỉ
và Na Uy. Trong khi đó, việc không đồng tình cho vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ đã
tăng lên 15 điểm, đạt mức trung bình là 43%, so với 36% dành cho Nga, 30% dành
cho Trung Quốc và 25% dành cho Đức.
Khi
niềm tin vào sự lãnh đạo quốc tế của Mỹ suy sụp, thì cam kết về hợp tác của các
quốc gia - cuối cùng là có thể hướng tới một cuộc chạy đua về kinh tế xuống tận
đáy hoặc thậm chí còn là một cuộc xung đột đầy bạo lực. Xét cho cùng, một đất
nước không có khả năng tuân thủ các luật lệ, nếu họ không tin rằng các đối thủ
của mình cũng sẽ làm như vậy. Lấy ví dụ như Nhật Bản sẽ có nhiều khả năng kiềm
hảm việc phá giá mức giá hối xuất nếu Nhật cũng tin rằng Hoa Kỳ cũng sẽ kiềm chế
như vậy.
Tất nhiên, một số các lời tuyên bố của
chính quyền ông Trump có thể chỉ xem ra như là khoác lác. Vào những năm đầu của
thập niên 1980, trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, Ronald Reagan cũng đặt vấn
đề về trật tự tiền tệ quốc tế; ông đã đưa ra một đường lối khắc khe hơn về châu
Mỹ La tinh và bày tỏ nghi ngờ về việc răn đe bằng vũ khí hạt nhân (ông dành ưu
tiên trong ý tưởng chiếm ưu thế về vũ khí hạt nhân). Nhưng đến nhiệm kỳ thứ
hai, Reagan đã chấp nhận về sự hợp tác quốc tế.
Tuy
nhiên, vào thời điểm đó, về mặt hình thức, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ hầu như được
bảo đảm, đứng trước tình trạng là chỉ có một siêu cường toàn cầu khác - đó là
Liên Xô - mà nước này cũng đang trong lúc suy tàn. Nhưng tình trạng đó không phải
là trường hợp hiện nay. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc hợp tác quốc tế là
thất bại.
Trong
một cuốn sách xuất bản vào năm 1984 mang tựa đề là After Hegemony,
Sau Thời kỳ Quyền Độc bá, Robert Keohane, một học giả người Mỹ, đã
lập luận rằng hợp tác quốc tế có thể tiếp tục, thậm chí không có sự chế ngự
toàn cầu của nước Mỹ. Nhận thức chính của Keohane là việc thành lập các định chế
như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Y tế Thế giới và thậm chí cả các định chế
tương tự như G20 có thể đòi hỏi có một nhà lãnh đạo rõ ràng, nhưng không có đòi
hỏi rõ về vấn đề điều hành hoạt động cho các tổ chức này.
Thật
vậy, nhờ các định chế như vậy, mà hiện nay gánh nặng của vai trò lãnh đạo đã nhẹ
hơn. Nếu các chính phủ cố tìm cách hưởng lợi từ trong các hệ thống dựa trên các
luật lệ, chẳng hạn như điều hành hệ thống thương mại toàn cầu, họ có thể làm được
như thế thông qua các định chế đa phương hiện có. Điều này cho phép có một loạt
các thu xếp với nhiều dị biệt của các chính phủ để đảm nhận vai trò lãnh đạo
trong các lĩnh vực khác nhau.
Vào
tháng Giêng năm 2017, sau khi ông Trump thông báo rằng Hoa Kỳ đã rút khỏi Hợp
tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) - sáng kiến đầy tham vọng do Mỹ lãnh đạo để tạo
ra một khối lượng đầu tư và thương mại quy mô bao gồm 12 quốc gia trong vành
cung Thái Bình Dương - nhiều người cho rằng những ngày tàn của TPP đã gần kề.
Nhưng một năm sau, 11 quốc gia còn lại tuyên bố rằng họ sẽ đang thăng tiến, dựa
trên cái gọi là Thỏa thuận Toàn diện và Tiến bộ cho TPP (The Comprehensive and
Progressive Agreement for the TPP).
Cũng
tương tự như vậy, hồi tháng 6 vừa qua, sau khi ông Trump công bố rằng Mỹ sẽ rút
khỏi hiệp định về khí hậu ở Paris, nhiều nhà quan sát lo sợ về điều tồi tệ nhất.
Vào cuối năm ngoái, mọi nước trên thế giới đã trở thành các quốc gia kết ước thỏa
thuận này. Hơn nữa, 15 tiểu bang của nước Mỹ đã thành lập Liên minh Hoa Kỳ về
Khí hậu, họ cam kết duy trì các mục tiêu của Hiệp định Paris.
Cuối
cùng, việc tìm hiểu công khai của ông Trump về khối NATO, liên minh an ninh do
Hoa Kỳ lãnh đạo, đã thúc đẩy châu Âu tiến hành kế hoạch an ninh chung cho riêng
họ. Lo sợ rằng có thể bị loại trừ, giờ đây Mỹ đã phản đối những động thái này.
Điều
đó không gây ngạc nhiên. Hiện nay, hình thức hợp tác quốc tế đang bắt đầu nổi
lên các lời hứa hẹn phản ánh nhiều quan điểm và lợi ích khác nhau, với việc các
quốc gia điều chỉnh các chính sách của họ dựa trên nhiều loại cân nhắc quốc tế,
không chỉ là những ưu tiên và lợi ích của Hoa Kỳ. Kết quả có thể là các liên
minh hợp tác mới cùng với các định chế toàn cầu được cải thiện. Đối với Mỹ,
chính quyền của ông Trump cũng có thể thấy rõ rằng "ưu tiên cho nước Mỹ
" thực sự có nghĩa là "nước Mỹ bị cô lập".
***
Phụ chú của người dịch:
After
Hegemony là
một danh tác của Robert O. Koehane bàn về ba điều kiện cơ bản
tạo nên vai trò thống trị của Mỹ trong thời kỳ hậu chiến, một là một hệ thống
tiền tệ quốc tế ổn định, hai là các luật lệ cho một thị trường tự do mậu dịch
quốc tế và ba là quyền thâm nhập và khai thác thị trường dầu hoả với giả cả ổn
định.
Thực
tế cho thấy là sau những biến động tiền tệ vào những năm 1971 và 1973, hệ thống
tiền tệ quốc tế theo Hiệp ước Brettons Woods không còn ổn định. Hệ thống tự do
mậu dịch quốc tế, một mục tiêu lý tưởng mà tổ chức GATT theo đuổi, đã không đạt
đuợc; ngược lại, Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, qua nhiều hình thức bảo hộ khác nhau,
còn vi phạm luật lệ nặng nề. Dù ảnh hưởng của các doanh nghiệp khai thác dầu hoả
của Mỹ tại các thị trường Trung Đông và chính quyền Mỹ tại các quốc gia thuộc
khối Á Rập là cực kỳ sâu đậm, nhưng trong những năm đầu của thập niên
1970, Mỹ đã không thể tạo áp lực để duy trì một hệ thống giá cả ổn định. Ngay cả
Cơ quan Năng lượng Quốc tế, được Mỹ tác động thành lập vào năm 1974, nhằm mục
đích phối hợp các biện pháp chung cho một chính sách năng lượng quốc tế, cũng
không ngăn chận các cuộc khủng hoảng.
Từ
giửa thập niên 1970, vai trò độc quyền bá chủ của Mỹ đã giảm đi vì hai lý do
chính là việc tham chiếm tại Việt Nam và tình trạng lạm phát, cả hai gây gánh nặng
về kinh tế nội địa và uy tín ngoại giao cho Mỹ. Nhưng tình hình an ninh tại
châu Âu hoàn toàn tùy thuộc vào tiềm năng quân sự và ý chí lãnh đạo của Mỹ và
các quốc gia dân chủ phương Tây. Khủng hoảng trong xung đột Đông-Tây có phần
nào chuyển dạng thành khủng hoảng Bắc-Nam, một tình trạng tương phản về quyền lợi
giửa hai khối quốc gia giàu và nghèo cũng như hai khối quốc gia sản xuất dầu hoả
và Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Dù tình trạng đối đầu này không thể kéo dài,
nhưng những dị biệt ý thức hệ giửa hai khối NATO và Đông Âu vẫn còn tồn tại.
Robert
O. Keohane kết
luận là dù quyền bá chủ của Mỹ suy yếu, nhưng trong chừng mực nhất định quyền
này vẫn còn có ít nhiều và sự hợp tác quốc tế có thể biến dạng.
***
Ngaire Woods là Trưởng khoa sáng lập của Trường Bratvatnik
chuyên về Khoa học Công Quyền thuộc Đại học Oxford.
Nguyên
tác:
International
Cooperation 2.0
Tựa
đề bản dịch là của người dịch
-----------------------------------
Hoa Kỳ
theo chủ nghĩa biệt lập | Báo Sài Gòn Giải Phóng - Jan
11, 2018
Ông Trump và chủ nghĩa
Jackson của Mỹ - BBC Tiếng Việt
- Mar 30, 2017
No comments:
Post a Comment