VNCH
đã sụp đổ sau 30 tháng tư 1975, bây giờ có nói cái gì thì những sự việc đã xảy
ra cũng không thể thay đổi. Nhưng sự thật lịch sử vẫn cần phải được tôn trọng.
Sự việc đó đã xảy ra như thế nào người viết sử cần viết lại trung thực y như vậy.
Thiết lập lại “sự thật lịch sử” là “trách nhiệm đối với lịch sử – devoir de
mémoire”. Đó cũng là thái độ biết tôn trọng quá khứ và dám nhận trách nhiệm đối
với các thế hệ tương lai.
Ta thấy rằng những gì “phe thắng cuộc” nói về cuộc chiến là không luôn luôn đúng. “Thành kiến” và “lập trường chính trị” đã khiến cho những “sự thật lịch sử” hoặc bị chôn vùi, hoặc bị xuyên tạc. Một số bài viết, ý kiến nhân dịp 50 năm trận Mậu Thân 1968 được đăng tải trên mạng, trên báo chí… cho ta có nhận xét như vậy.
Các
bài phỏng vấn ông Vũ Cao Phan, (hay của quí ông Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Lập…)
trên BBC, hay bài của tác giả Nguyễn Gia Kiểng “Mậu Thân 1968, giải mã một nghịch
lý lịch sử” đăng trên mạng internet là những thí dụ.
Về
ý kiến của ông Vũ Cao Phan, ta thấy ngay cả “tên gọi” của cuộc chiến 1954-1975
vẫn chưa ngả ngũ. Huống chi là những sự việc chính trị, ngoại giao khác liên
quan tới trận Mậu Thân 1968. Dẫn:
“Trong khi người Mỹ –
một bên tham chiến – gọi cuộc chiến tranh này là chiến tranh Việt – Mỹ hay chiến
tranh Việt Nam, chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì một số người Việt Nam lại
gọi đây là nội chiến, lấy hình thức làm bản chất. Càng vô lý hơn khi cho rằng
có một cuộc xâm lược mang ý thức hệ. Ý thức hệ ấy chỉ là người bạn đường ngẫu
nhiên của lịch sử mà thôi, mọi sự gán vào đều khiên cưỡng.” Hết dẫn.
Ông
Vũ Cao Phan nhìn nhận tên gọi “cuộc chiến” của phía Mỹ, “chiến tranh Việt Nam”,
nhưng phản đối tên gọi cuộc chiến là “nội chiến” cũng như bản chất “xâm lược”
và “ý thức hệ” của cuộc chiến.
Người
Mỹ có thói quen lấy địa danh để đặt tên cho cuộc chiến. Thí dụ “chiến tranh Cao
Ly”, “chiến tranh Vùng Vịnh”, “chiến tranh Iraq”… Chiến tranh Việt Nam họ gọi
là… “chiến tranh Việt nam”. Cuộc chiến này có quan hệ với Lào và Campuchia nên
đôi khi cũng gọi là “chiến tranh Đông Dương lần hai” (để phân biệt với cuộc chiến
lần một 1945-1954 giữa Việt Minh với Pháp).
Từ
sau Thế Chiến thứ II, luật quốc tế phát triển mạnh mẽ, đồng thời với sự thành
hình của Liên hiệp Quốc, mục đích ngăn ngừa chiến tranh và bảo vệ hòa bình.
Người
Mỹ lấy lý do gì, tư cách gì để can thiệp, sau đó là can dự vào “chiến tranh Việt
Nam”, để không vi phạm vào các nguyên tắc của LHQ ?
Ta
có thể tìm đọc tập tài liệu “Why Vietnam ?” của The White House, Washington,
D.C., 20 août 1965 (từ nay gọi là tài liệu Why Vietnam?), có thể xem như là tập
“sách trắng” của Mỹ nhằm giải thích lý do, trước dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ,
vì sao người Mỹ can thiệp vào chiến tranh VN (jus in bello – quyền được can dự
vào chiến tranh).
Từ
năm 1960, qua những bức thư Tổng thống Eisenhower gởi ông Diệm, ta thấy người Mỹ
đã có quan niệm miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia đó tên
gọi “South Vietnam”. Tổng thống Eisenhower cảnh báo ông Diệm bằng thư riêng “cộng
sản miền Bắc đã và đang sử dụng vũ lực để khuynh đảo chính trị và phá hoại nền
tự do của quốc gia South Vietnam”.
Sang
đến đời tổng thống Kennedy, cũng theo tài liệu “Why Vietnam?”, dẫn lá thư ngày
14 tháng 12 năm 1961 của TT Kennedy đã gởi cho ông Diệm, nội dung cảnh báo:
“các cuộc tấn công bằng vũ lực hay các cuộc khủng bố chống lại nhân dân và
chính quyền trên đất nước của quí ngài trong thời gian qua được sự ủng hộ và
lãnh đạo của ngoại bang là cộng sản Hà Nội”.
Cũng
trong tập tài liệu đã dẫn, tháng tư năm 1965, TT Johnson còn đi xa hơn trong lập
luận VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”: “Miền bắc VN đã tấn công một
quốc gia độc lập có chủ quyền là miền Nam VN”.
Diễn
văn 28 tháng 7 năm 1965 của TT Johnson tố cáo: “cuộc xâm lược của VNDCCH nhằm mục
đích bành trướng và thống trị của chủ nghĩa cộng sản trên toàn Châu Á. Cuộc chiến
xảy ra âm thầm, không hề có “tuyên bố chiến tranh”, cũng không có việc xua quân
ào ạt như ở Cao Ly (Đại Hàn), bởi vì các lãnh đạo cộng sản hiểu rõ rằng làm như
vậy họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Vì vậy họ tổ chức một cuộc xâm lược bán chính
thức, qua các hình thức đưa các đạo quân đã được huấn luyện cùng vũ khí đạn dược,
xâm nhập lén lút xuyên qua biên giới quốc gia”.
Tài
liệu cũng chỉ rõ sự hiện diện của Mỹ ở VN là nhằm “củng cố trật tự thế giới”, từ
“Berlin đến Thái Lan”, để “bảo vệ hòa bình, tự do và quyền dân tộc tự quyết”.
Nhiều lần tập tài liệu trích dẫn ý kiến lãnh đạo Mỹ. Theo đó Mỹ “không có một
tham vọng nào về lãnh thổ ở Việt Nam” mà chỉ bảo vệ “quyền” của nhân dân miền
Nam Việt Nam. “Quyền” này thể hiện qua sự “lựa chọn tương lai của dân tộc VN bằng
lá phiếu và các cuộc bầu cử tự do”. Tài liệu cũng dẫn những cam kết của các
lãnh đạo Mỹ: “Đến khi nào mà Mỹ còn có thể ngăn cản, thì không có một thế lực
nào có thể khuất phục dân tộc Nam Việt Nam bằng vũ lực hay bằng khủng bố”.
Tức
là, quan điểm của Mỹ trong chiến tranh VN gồm hai mặt: chiến tranh “quốc tế”,
nước này xâm chiếm nước kia và “chiến tranh ý thức hệ” (chiến tranh be bờ “từ
Berlin đến Thái lan” chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản).
Sự
can thiệp của Mỹ, trên phương diện “công pháp quốc tế”, đặt trên lý do gồm 3 điểm:
1/ Việt Nam Cộng Hòa là nạn nhân của một cuộc xâm lược của một quốc gia khác.
2/Mỹ tham chiến nhằm bảo vệ quốc gia VNCH. 3/ Mỹ chủ trương một giải pháp hòa
bình cho cuộc chiến.
Cùng
“đổ bộ” vào Việt Nam, theo chân quân Mỹ là một đạo quân hùng hậu “phóng viên
chiến trường” của các tạp chí Mỹ và Tây phương. Chưa bao giờ có trong lịch sử
nhân loại chiến tranh được “công khai” trước mắt mọi người như chiến tranh VN.
Các tổ chức quốc tế như hội Chữ thập đỏ quốc tế cũng đến VN. Không một nhà tù
nào ở miền Nam lại không bị sự “kiểm soát” của các cơ quan này. Luật quốc tế về
chiến tranh (jus ad bellum) đã “hạn chế”, nếu không nói là “trói tay” những
hành động của quân Mỹ và VNCH.
Vấn
đề là luật về chiến tranh chỉ áp dụng (gắt gao) cho một phía: Nam Việt Nam. Người
ta nói Mỹ và VNCH thua không phải ở chiến trường, mà ở Paris, ở Luân Đôn,
Washington.
Việc
tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam vì vậy phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp
Quốc, điều 51 về “quyền tự vệ chính đáng”, cũng như tương đồng với nghị quyết
ngày 25 tháng 6 năm 1950 của Hội đồng bảo an LHQ về vấn đề quân Bắc Hàn xâm lược
Nam Hàn.
Quan
điểm của Mỹ là không hề có cuộc “nội chiến” nào ở Nam VN. Điều này phù hợp với
quan điểm của ông Vũ Cao Phan.
Nhưng
đâu là ý nghĩa của cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”, mà theo ông Vũ Cao Phan, là
“đạt kết quả ngoài dự kiến”, khiến cho Mỹ “xuống thang và cuối cùng là cuộc chiến
kết thúc” ?
Ngay ở ý nghĩa của cụm từ “tổng tấn công và nối dậy” đã bộc lộ tính “nội chiến” của cuộc chiến.
Nếu
ông Vũ Cao Phan không nhìn nhận chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến” thì “kết
quả ngoài dự kiến” (của trận Mậu thân) là gì ?
Nếu
ta có tham khảo các tài liệu lịch sử về chiến tranh VN, ta thấy ngay rằng phe
VNDCCH (miền Bắc) và MTGPMN chủ trương chiến tranh VN là một cuộc “chiến tranh
giải phóng”. Mỹ là “thực dân kiểu mới” và VNCH là “chính quyền ngụy, tay sai”.
Nhưng trên phương diện “luật quốc tế”, họ vận động dư luận quốc tế để cho rằng
chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến” giữa hai bên VNCH và MTGPMN.
Ta
thấy các hình ảnh, những khúc phim… của các phóng viên nước ngoài công bố trong
thời gian chiến tranh, không ngoại lệ, chỉ là máu me, thương tích, chết chóc… của
lính Mỹ và những người mà Mỹ cho là “Việt Cộng”, mà thực chất đó là những nông
dân VN.
Áp
lực của “dư luận” qua các cuộc biểu tình, các phong trào “phản chiến” tại các
nước Tây phương như Pháp, Anh… hay tại chính quốc ở Washington, New York… lãnh
đạo Mỹ bắt đầu từ TT Johnson, sau Mậu Thân 1968 nhìn nhận chiến tranh VN là một
cuộc “nội chiến”.
Khi
nhìn nhận chiến tranh VN là “nội chiến”, hai bên đối đầu là VNCH và MTGPMN, thì
Mỹ không có danh nghĩa nào để can dự vào cuộc chiến.
Điều
51 Hiến chương LHQ về quyền “tự vệ chính đáng” chỉ có hiệu lực khi các bên VN
là những “quốc gia”.
Nghị
quyết của LHQ về Cao Ly chỉ có hiệu lực khi miền Bắc “xâm lược” miền Nam.
CSVN
đã thành công, qua trận Mậu thân, vận động dư luận để biến một cuộc chiến “quốc
tế” và “ý thức hệ” thành một cuộc “nội chiến”, trong nội bộ VNCH.
Đó
mới là “kết quả ngoài dự kiến” của cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”.
Sau
trận Mậu thân 1968 Mỹ bắt đầu nhượng bộ trên phương diện ngoại giao, buộc VNCH
phải “nhìn nhận” thực thể MTGPMN, buộc ngồi “ngang hàng” với thực thể này trong
“bàn tròn bốn bên” ở Paris. Hiệp định Paris 1973 ra đời trong bối cảnh “nội chiến”,
để Mỹ “Việt nam hóa chiến tranh”, chuẩn bị cho “đồng minh tháo chạy”.
Bây
giờ nhìn lại, quan điểm của Mỹ, cái gọi là MTGPMN chỉ là một “cánh tay nối dài”
của miền Bắc. Tổ chức này được thành lập theo một nghị quyết của đảng Lao Động (tiền
thân của đảng cộng sản) năm 1960. Nhân sự chỉ huy tổ chức này đều là cán bộ đảng
Lao Động. Tất cả các chiến binh, quân “nằm vùng” ở miền Nam, hoặc được đưa trực
tiếp từ miền Bắc, hoặc được miền Bắc huấn luyện.
Tức
là Mỹ (và VNCH) thua trên mặt trận truyền thông tại Paris, tại Washington, chớ
không hề thua ở chiến trường, hay thua về lý lẽ tham chiến (jus in bello).
Vì
vậy ý kiến của ông Vũ Cao Phan, khi phản đối bản chất “nội chiến” của cuộc chiến,
là “có vấn đề”.
Điều
tức cười là ông Vũ Cao Phan cũng phản đối bản chất “ý thức hệ” của cuộc chiến.
Ông cho rằng “Ý thức hệ ấy chỉ là người bạn đường ngẫu nhiên của lịch sử mà
thôi, mọi sự gán vào đều khiên cưỡng.”
Không
có sự “ngẩu nhiên” nào kéo dài (bằng tuổi đời của đảng CSVN).
Ông Lê Duẩn đã từng nói “đánh Mỹ là ta đánh cho Liên Xô, cho Trung
Quốc”. Đến bây giờ hiến pháp VN vẫn còn khẳng định chủ nghĩa Mác Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Phú Trọng mới đây còn khẳng định “kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ý
thức hệ vẫn còn “gắn liền” với vận mạng đất nước và dân tộc VN.
Đây
là một nhận định chủ quan, thể hiện sự mâu thuẩn nội tại khá “trầm trọng” của
ông Vũ Cao Phan.
Còn
bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng, rõ ràng tác giả viết bằng “thành kiến” chớ
không viết bằng ngòi bút (bàn phím) của một trí thức chân chánh.
Sự
mâu thuẩn của tác giả Nguyễn Gia Kiểng thể hiện trong bài viết.
Dẫn
những số liệu của tác giả, về thiệt hại các bên trong cuộc chiến Mậu Thân 1968:
Dẫn:
“Thiệt hại về phía Việt Nam Cộng Hòa
trong trận đánh vào vào dịp Tết là gần 5.000 người (con số chính xác là 4.954)
và gần 16.000 người bị thương. Phía quân đội Mỹ có 3.895 người thiệt mạng và
khoảng 19.000 người bị thương.”
Thiệt hại phía cộng sản:
Dẫn
“lực lượng cộng sản vào thời điểm Tết Mậu
Thân là trên 500.000 người. Một tài liệu của cơ quan tình báo CIA Mỹ ước lượng
tổng số quân cộng sản lúc đó là khoảng 600.000 người. Cuối năm 1968 lực lượng
này sau những thương vong và hồi chính chỉ còn lại khoảng 200.000 với hàng ngũ
rã rượi và tinh thần suy sụp.”
Mặc
dầu phía VC đã giành được yếu tố “bất ngờ”, do vi phạm thỏa thuận “ngưng chiến
để ăn tết”. Phía VC còn được thế thượng phong do vũ khí tối tân hơn, gồm AK47
và B41, trong khi lính VNCH vẫn còn xài những khẩu “carbine” và “garant” cũ kỹ
“bắn từng viên” còn lại từ Thế chiến thứ II.
Ngay
cả tác giả cũng phải nhìn nhận trận Mậu Thân là một chiến thắng của VNCH và Mỹ.
Dầu không nói ra, tác giả có vẻ nhìn nhận tinh thần chiến đấu của lính VNCH và
Mỹ cao hơn chiến binh VC.
Tức
là từ binh lính, các cấp chỉ huy, cấp lãnh đạo của VNCH đã hoàn tất nhiệm vụ của
họ một cách “vẻ vang”, là “đẩy lui và tiêu diệt kẻ địch”, đem lại chiến thắng
cho đất nước. Thiệt hại của VNCH và Mỹ là “không đáng kể”, nếu tính phía VC mất
2/3 quân số (từ 600.000 quân chỉ còn lại 200.000 quân).
Hãy
đọc đoạn sau đây của tác giả Nguyễn Gia Kiểng:
Dẫn:
“Trong lịch sử cận đại không có trận chiến
nào diễn ra một cách kỳ cục như vậy. Càng khó tưởng tượng khi chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa lúc đó là một chính quyền quân đội đặt an ninh lên trên hết và có
đầy đủ phương tiện truyền thông hiện đại. Nếu có một chút danh dự của một người
làm tướng thì cả Thiệu lẫn Kỳ đều phải tự xử sau sự kiện ô nhục này, nhưng họ
chỉ biết tự mãn chứ không có danh dự. Các cấp lãnh đạo và tướng lãnh của Việt
Nam Cộng Hòa cũng không khác họ bao nhiêu, không thấy ai tỏ ra xấu hổ. Không phải
là phe cộng sản đã hành quân khéo và giữ bí mật giỏi, họ hành quân rất luộm thuộm,
sai cả giờ phát động vì lẫn lộn lịch tầu và lịch ta. Vấn đề chỉ là chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó quá tồi dở. Bộ máy hành chính cũng như quân sự có nhiều
người rất tốt, rất dũng cảm và rất giỏi nhưng lãnh đạo quá tồi nên cũng giống
như cơ thể cường tráng nhưng cái đầu không hoạt động.”
Rõ
ràng tác giả viết do “thành kiến”.
Nếu
chính quyền VNCH thời đó “quá tồi dở” thì giải thích làm sao họ chiến thắng trận
Mậu Thân 1968 ? VC, vũ trang bằng vũ khí tối tân, AK54, B41 với xe tăng T54 yểm
trợ, đồng loạt đánh bất ngờ vào trên 100 tỉnh lỵ, thành phố… của VNCH.
Trước
sự phản công tài tình của quân lực VNCH, VC không chiếm được một địa phương
nào. Ngoại trừ Huế, VC chiếm được 2 tháng.
Có
thể “Nguyễn Cao Kỳ, mầu mè và phô trương”, “Nguyễn Văn Thiệu, mờ nhạt và thiển
cận” đúng như nhận định của tác giả. Nhưng làm sao tác giả có thể phủ nhận việc
chính hai người này đã dẫn dắt VNCH đem lại chiến thắng năm Mậu Thân.
Tức
là trên phương diện “quân sự” họ đã hoàn thành nhiệm vụ của họ.
Tại
sao họ phải “tự xử” ? tại sao một chiến thắng lại trở thành “sự kiện ô nhục” ?
Tác
giả là một công chức cao cấp trong chính quyền VNCH, tương đương hàm thứ trưởng.
Các
tướng lãnh đã làm tròn nhiệm vụ “nhà binh” của họ, là đem lại chiến thắng trên
phương diện quân sự. Tác giả đã làm gì trong vai trò “đầu não”, trên địa bàn
“chính trị” của mình ?
Tác
giả đã “sổ toẹt” vào di sản của VNCH. Điều này không ai chấp nhứt. Nhưng tác giả,
qua thành kiến cá nhân đã bóp méo sự thật lịch sử. Biến một chiến thắng, sự can
trường và tài ba của chiến binh VNCH, trở thành một “sự kiện ô nhục”, là điều
khó có thể chấp nhận.
Tác
giả nhận định về cuộc chiến Mậu Thân như sau:
“Nếu những người cầm
đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân không quá tồi, nếu
Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một
trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã
khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.”
Bỏ
qua hai yếu tố “ngoại tại” là TT Johnson và tướng Westmoreland. Nếu những lãnh
đạo VNCH thời đó “khá hơn”, tầm cỡ của tác giả Nguyễn Gia Kiểng bây giờ. Thì hậu
quả trận Mậu thân 1968 có “khác hơn” không ? Lịch sử VN có “khác hơn” không ?
Không
ai đặt lại “chữ nếu” trong lịch sử. Nhưng nếu có theo dõi diễn biến cuộc chiến
VN, với những lý do tham chiến của các bên. Tôi cho rằng kết cục cuộc chiến cũng sẽ không khác.
VNCH cũng như Mỹ thua CSVN, không phải vì chiến đấu dở, mà vì thua ở mặt trận truyền thông. Thua ở Paris, ở Washington.
VNCH cũng như Mỹ thua CSVN, không phải vì chiến đấu dở, mà vì thua ở mặt trận truyền thông. Thua ở Paris, ở Washington.
Bởi
vì, như đã nói, chưa có cuộc chiến tranh nào xảy ra như cuộc chiến VN, phía báo
chí là “một bên” của cuộc chiến, như là “nhân chứng”. Vấn đề là họ làm “nhân chứng”
cho phía CSVN. Ta thấy các phóng viên đặt trụ sở ở Sài gòn, hình ảnh thu lượm ở
các chiến trường do các phóng viên “đu càng trực thăng” theo lính Mỹ hay lính
VNCH. Tất cả hình ảnh, bài viết đầy máu me chết chóc do báo chí đưa ra trở
thành những cây dao “đâm sau lưng” Mỹ và VNCH. Họ đặt đủ thứ vấn đề của VNCH, từ
việc hạn chế dân chủ, đàn áp nhân quyền, đàn áp tôn giáo, sinh viên biểu tình
v.v… Họ đặt câu hỏi cho nhân dân Mỹ: VNCH có xứng đáng để được Mỹ giúp nữa hay
không ?
Ngay
cả các tổ chức quốc tế, như hội Chữ thập đỏ. Họ thường xuyên “giám sát” các nhà
tù VNCH, sau đó viết những báo cáo có hiệu lực “như viên thuốc độc”, lên diễn
đàn LHQ.
Thời chiến tranh mà họ xem như “thời bình”. Đám “phản loạn” được “bao che”, vì đó là kho tàng để họ khai thác viết tin tức, báo cáo. Trong khi ở các nước khác, ngay ở thời điểm hòa bình hiện nay, mức độ tự do, mức độ “nhân quyền”, mức độ dân chủ… đều thua xa VNCH thời đó. Bây giờ có ai vào các nhà tù Thái Lan, Singapour, Mã Lai… để “giám sát” ở đó ? Trong khi nhà tù Phú quốc do CSVN giàn dựng lên bây giờ làm địa điểm du lịch, nếu lấy bằng chứng là hình ảnh của Tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế, so sánh ta thấy rõ ràng là sự bịa đặt.
Dư
luận Mỹ chỉ nhìn “một phía” của cuộc chiến. Mà ở một cuộc chiến bình thường,
các ký giả, phóng viên không có lý do để có mặt.
Mục
tiêu của CSVN, nói là “giải phóng, thống nhứt dân tộc”, mà thực chất là nhuộm đỏ
VN. Xã hội VN bây giờ bị “kềm kẹp”, bị “áp bức”, bị “bóc lột”… gấp trăm, ngàn lần
thời VNCH. Không có tổ chức quốc tế, nhà báo, phóng viên nào “đặt trụ sở ở
Continental” như thời VNCH nữa. Vì họ đã bị CSVN “tống khứ” từ lâu.
VNCH
bị đưa vào thế “phải thua”. Ngay cả ông Kiểng lãnh đạo VNCH thời đó, tôi dám chắc
ông cũng không làm được cái gì để thay đổi. Nhưng vấn đề Mậu Thân có thể thay đổi.
Một chiến thắng có thể thành thất bại. Vì người lãnh đạo không “rành” chuyện
mình làm.
No comments:
Post a Comment