Trương Văn Tân
Cập
nhật lần cuối 26/10/2014
"Trong
tất cả mọi vật của thiên nhiên,
có một cái gì đó rất kỳ diệu"
có một cái gì đó rất kỳ diệu"
Aristotle
(BC 384-322)
Tóm
tắt
Trong
4 tỷ năm tiến hóa, dù không có nhiều lựa chọn và phương tiện trong tay, thiên
nhiên đã có nhiều đáp án để tạo và duy trì sự sống của vạn vật có khả năng sinh
tồn và thích ứng trong những điều kiện khó khăn và hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
Cấu trúc có tôn ti kéo dài từ mức vi mô đến mức vĩ mô trong xương động vật hay
vỏ của các loài giáp xác là một đáp án tối ưu trong việc hình thành một giàn
giáo bền chắc cho việc đi đứng và một áo giáp cứng để che thân trong khi nguyên
liệu chính chỉ là hợp chất của vôi. Thiên nhiên còn thiết kế da và vảy của các
loài cá lớn nhỏ làm giảm lực cản của nước theo những nguyên lý thủy động lực
học để chúng có thể bơi thoải mái. Các tác động của hiệu ứng lượng tử đối với
sinh học phản ánh sự kỳ bí tột cùng của thiên nhiên. Nhiều khám phá gần đây cho
thấy hiệu ứng lượng tử có ảnh hưởng sâu sắc đến hiện tượng quang hợp biến năng
lượng mặt trời thành hóa năng cho sự sống còn của vi khuẩn và thực vật. Loài
chim di trú có thể bay xuyên lục địa nhờ vào khả năng định hướng bằng cơ chế "vướng
víu lượng tử". Những hiệu ứng này cũng là những công cụ cơ bản mà các nhà
vật lý lượng tử đang sử dụng cho việc chế tạo máy tính lượng tử tương lai. Như
vậy, phải chăng vi khuẩn, lá cây và loài chim đã biết dùng thuật toán lượng tử
từ thuở khai thiên lập địa và làm toán giỏi hơn các nhà vật lý lượng tử tài ba?
Câu trả lời là khẳng định. Những thí dụ trên cho thấy Mẹ Thiên nhiên là một nhà
khoa học siêu phàm biết ứng dụng một cách tài tình những nguyên lý cơ học, thủy
động lực học và thậm chí thuyết lượng tử. Con người biết rất ít và còn phải học
hỏi rất nhiều từ Mẹ Thiên nhiên, vị vạn thế sư biểu của muôn đời và muôn loài.
1.
Thiên nhiên và tiến hóa
Sự
sống xuất hiện trên trái đất đã gần 4 tỷ năm. Thiên nhiên tiến hóa nhằm đáp ứng
theo nhu cầu và tìm một lời giải để thích ứng với môi trường sinh sống. Sau
hàng tỷ năm làm thực nghiệm và thử nghiệm, thiên nhiên đã có vô số đáp án cho
vô số vấn đề nhằm bảo đảm và duy trì sự sống. Đã có những loài bị tuyệt chủng,
nhưng chúng không hẳn là sự sai lầm của một đáp án mà là do luật đào thải của
sự chọn lọc tự nhiên hay do chính sự tàn phá của con người ngoài sự kiểm soát
của thiên nhiên.
Trải
nghiệm 4 tỷ năm của thiên nhiên là một nguồn dồi dào cho sự mô phỏng, bắt
chước, học hỏi và cũng là nguồn cảm hứng cho các ngành công nghệ mới. Từ ngàn
xưa, chim muông và kình ngư đã là mô hình mà loài người đã từng ngưỡng mộ. Máy
bay, tàu thủy, tàu ngầm là kết quả của nỗ lực mô phỏng xuất phát từ sự nguỡng
mộ này. Nhưng trên thực tế, sự mô phỏng này không phải hoàn toàn là một bản in
"giống như đúc" từ thiên nhiên vì con người vẫn còn thua kém Mẹ Thiên
nhiên trên nhiều lĩnh vực. Sản phẩm thiên nhiên được hình thành từ phương pháp
"từ dưới lên", từ tế bào đến mô đến cơ quan có chức năng khác nhau
rồi tạo nên con người, sinh vật, cây cỏ, hoa lá cành. Vì vậy, cấu trúc sinh vật
là một tập hợp có tôn ti (hierachy) nhiều thứ bậc xuất phát từ cái nhỏ nhất (tế
bào) và cuối cùng kết tụ thành một sản phẩm vĩ mô (con người, cây cỏ). Trái
lại, phương thức chế tạo bởi con người thường là "từ trên xuống"
không tôn ti trật tự, từ một vật to như một khối kim loại được nung chảy, gia
công làm thành vật nhỏ, nhỏ hơn hay biến màng dày thành mỏng, mỏng hơn.
Khi
ta nhìn một con ruồi, ấn tượng đầu tiên là "bẩn". Nhưng khi ta vượt
qua cái định kiến thường có để quan sát phương thức bay của ruồi, côn trùng hay
loài chim, ta nhận ngay khả năng tạo vật bay có cánh vỗ của con người vẫn còn ở
trình độ sơ đẳng. Vì vậy, khi chế tạo một vật bay con người chỉ có thể làm đôi
cánh lượn cố định trong khi cánh của loài chim, côn trùng là loại cánh vỗ
(flabbing wing) nhiều phức tạp. Con ruồi có thể điều chỉnh tốc độ bay nhanh hay
chậm, đổi hướng bay 180°. Nó có khả năng bay vòng vèo, bay "tiềm
kích" bất thần chui xuống hay bay vọt lên để tránh những cú đập nháng lửa
từ con người hay đáp xuống một đóa hoa đang rung rẩy trước gió. Tất cả nhờ vào
đôi cánh vỗ. Sự hiểu biết của chúng ta về cơ chế bay và lực nâng (lift) của côn
trùng và chim vẫn còn khiêm tốn. Cho đến ngày nay, việc lái chiến đấu cơ phản
lực tung hoành trên bầu trời như … ruồi, hay bay lên đáp xuống hàng không mẫu
hạm đang di động cũng là một việc khó khăn cần nhiều tập luyện. Như vậy, con
người có vật bay và thiên nhiên có chim bay, ruồi bay nhưng ở hai phương thức
khác nhau chỉ vì phương pháp chế tạo khác nhau. Thí dụ về con ruồi, một sản
phẩm của sự tiến hóa, cho thấy con người chỉ mô phỏng cái phiến diện nhưng chưa
mô phỏng được phương pháp hình thành của thiên nhiên từ mức tận cùng phân tử.
Cho
đến nay, vẫn còn vô số chi tiết mà con người chưa thể nắm bắt vì ta chưa thể
"nhìn" được các phân tử sinh học với những chi tiết và cơ chế vận
hành đặc thù của chúng. Các nhà nghiên cứu sinh học cần kính hiển vi với độ
phân giải đến mức nanomét (nm). Kính hiển vi quang học không thể quan sát vật nhỏ
hơn 200 nm. Kính hiển vi điện tử (electron) có thể quan sát đến vài mươi
nanomét nhưng năng lượng của electron sẽ "giết chết" các phân tử sinh
học. Giải Nobel Hóa học năm 2014 mới đây được trao cho Stefan Hell, Eric Betzig
và William Moerner về công trình khám phá kính hiển vi huỳnh quang cho việc
quan sát các hoạt động trong trạng thái "sống" của phân tử sinh học ở
độ phân giải nanomét. Khám phá vĩ đại này cho ta những tia huỳnh quang vén mở
phần nào cái bí ẩn của thiên nhiên giúp ta thắp sáng các phân tử, hiểu theo cả
nghĩa đen và nghĩa bóng, để nhìn và theo dõi những "hành vi" của
chúng các trong các hoạt động sinh học.
Quan
sát sẽ đưa đến việc lý giải nguyên lý và cơ chế của các đáp án sinh học trong
việc tổng hợp, cách thiết kế có tôn ti và sự hợp nhất thành một hệ thống. Mô
phỏng những yếu tố này là một yêu cầu tối quan trọng trong nỗ lực chế tạo những
vật liệu nhân tạo và thiết bị tiên tiến có những đặc tính tương đương với vật
liệu thiên nhiên và bộ phận sinh học. Học hỏi từ thiên nhiên và hiểu được
nguyên lý và cơ chế của thiên nhiên không những sẽ cho con người một phương
thức và một cách nhìn khác trong khoa học hiện đại, mà còn mở rộng sự hiểu biết
về những cái kỳ bí của hệ thống và chức năng sinh học. Những bước tiến trong
lĩnh vực này chỉ có thể thực hiện khi có sự cộng lực giữa các ngành khoa học
như sinh học, y học, hóa học, vật lý, toán học, vật liệu học, công trình học
(engineering) và công nghệ nano.
Gần
2.500 năm trước, Aristotle đã từng băn khoăn "có một cái gì đó rất kỳ
diệu". Con người ngày nay chia sẻ niềm băn khoăn đó và tìm kiếm sự kỳ
diệu trong cái thông thái vô tận của thiên nhiên. Bài viết này giới thiệu sơ
lược một vài thí dụ về sản phẩm và hệ thống sinh học như xương động vật, vỏ bào
ngư, da cá, sự quang hợp trong vi khuẩn và thực vật, và khả năng định hướng của
loài chim. Những điều này xem chừng rất đổi bình dị, không màu mè trang sức của
cuộc sống đời thường nhưng lại là những kỳ công của sự tiến hóa trải qua hàng
tỷ năm. Làm sao xương có thể là giàn giáo bền cứng cho việc đi đứng của muôn
loài động vật mà nguyên liệu chính chỉ là một hợp chất của vôi (calcium)? Vỏ
bào ngư cũng từ hợp chất vôi nhưng cấu trúc tôn ti của chúng có thể được mô
phỏng để chế tạo áo giáp hay vật liệu chống công phá tuyệt vời. Từ vật cứng như
xương sang vật mềm như da cá, thiên nhiên cũng đã ban cho các loài cá lớn nhỏ
những thiết kế làm giảm tối đa sức cản của nước để chúng bơi thoải mái. Cuối
cùng, sự quang hợp để vi khuẩn dưới lòng biển sâu sống còn, cho cây ngàn xanh
lá, và "nam châm" định hướng của loài chim bay muôn dặm đã cho thấy
sự thống trị của hiệu ứng lượng tử. Vi khuẩn, lá cây và loài chim biết làm
thuật toán lượng tử như máy vi tính lượng tử ư ? Vâng, từ kết quả thực
nghiệm, đó là sự thật không hơn không kém. Như vậy, liệu thuyết lượng tử có ảnh
hưởng sâu xa đến sự chọn lọc tự nhiên trong quá trình tiến hóa của muôn
loài ? Câu trả lời sẽ là đề tài lớn của ngành "Sinh học lượng
tử" trong thế kỷ 21.
2.
Khoáng hóa sinh học
2.1
Xương động vật
Khả
năng của thiên nhiên chế tạo một cấu trúc bằng các khoáng chất vô cơ là một
điều kỳ diệu cuốn hút sự chú ý của các nhà khoa học từ nhiều năm qua. Sự hình
thành bộ xương của thai nhi, vỏ sò, trẻ con mọc răng hay xương gãy lại lành là
những quá trình phức tạp xảy ra trong cơ thể con người hay động vật trong điều
kiện nhiệt độ và áp suất bình thường. Ta thường xem đó là một việc đương nhiên,
nhưng nếu là các vật dụng làm từ khoáng chất dù rất thông thường do con người
tạo ra như thủy tinh, gốm sứ thì cũng phải cần nung chảy hay thiêu kết
(sintering) đến nhiệt độ cao đến một vài ngàn độ. Chưa kể có một số phương pháp
cần cả nhiệt độ và áp suất cao.
Tuy
nhiên, khoáng hóa sinh học không phải là một quá trình tùy tiện có tính ngẫu
nhiên, mà là sự tổng hợp đưa đến một sản phẩm thích nghi cho từng ứng dụng,
không thừa không thiếu. Thí dụ, bộ xương các loài động vật tại sao phần lớn là
sợi collagen, calcium và phosphate mà không phải là kim loại? Trong bào thai
xương thoạt đầu chỉ là xương non mà phần lớn là collagen, không cứng lắm nhưng
rất dai. Collagen là một loại protein hay một polymer sinh học nhiều nhất trong
các loài động vật. Khi bào thai lớn dần thì sự khoáng hóa xảy ra với tạo ra
composite với calcium và phosphorus trong dạng 3Ca3(PO4)2.Ca(OH)2,
gọi là hydroxylapatite (HA). Sự khoáng hóa tiếp tục cho đến khi đứa bé trưởng
thành thì xương có độ cứng (mô-đun Young) gia tăng 30 lần đến 20 GPa (độ cứng
của thép 203 GPa)và độ bền (tensile strength) có trị số 150 MPa (độ bền của
thép 250 -1200 MPa). Vì vậy, khi so với thép, xương có độ bền và độ cứng 10 lần
nhỏ hơn có lẽ không phải là vật liệu thích hợp để xây dựng một giàn giáo cho
việc đi đứng. Phải chăng Mẹ Thiên nhiên đã sai lầm ? Không, Mẹ Thiên nhiên
đã thiết kế xương có độ bền cứng vừa đúng với sự đi đứng của các loài động vật.
Thép quá nặng cho việc di chuyển đi lại nếu thép là vật liệu cho xương. Thật
ra, cơ thể động vật chứa một số nguyên tố kim loại nhưng thường không phải là
những nguyên tố chính vì hàm lượng rất nhỏ.
Khác
với các vật liệu nhân tạo mà con người có thể chế tạo ra nhiều vật liệu từ
nhiều nguồn hợp chất và nguyên tố, nguyên liệu nguồn của vật liệu thiên nhiên
rất giới hạn. Từ khi quả đất hình thành, hơn 4 tỷ năm đã trôi qua nhưng số
nguyên tố dồi dào có trong biển, trên mặt đất, khí quyển chỉ là carbon (C),
nitrogen (N), oxygen (O), hydrogen (H), calcium (Ca), phosphorus (P), lưu huỳnh
(S) và silicon (Si). Những chất rắn được hình thành từ những nguyên tố này
thường giòn và yếu. Nhưng Mẹ Thiên nhiên không có nhiều lựa chọn về vật liệu,
nên bắt buộc phải sử dụng những nguyên tố có sẵn rồi đi tìm một đáp án để có
được độ bền cứng và độ dai thích hợp cho xương. Đáp án đó là một thiết kế có sự
tôn ti từ dưới lên, nghĩa là từ mức nguyên tử đến mức vĩ mô. Thật ra, đã có một
nhà khoa học [1] đặt vấn đề: những chất liệu trong xương con người không có gì
là ưu việt, nếu xương của chúng ta là thép thì có lẽ thể chất con người sẽ tốt
hơn rất nhiều. Nếu có người hành tinh trong vũ trụ ngoài kia có bộ xương thép
thì bộ xương của họ có cơ tính lớn gấp 4 lần xương người, thì họ sẽ cao hơn 4
lần (~7 m) và nặng hơn 64 lần (4x4x4).
Như
thế, nếu thiên nhiên có nhiều nguyên tố sắt liệu một con vật to lớn như voi có
thể trang bị bộ xương bằng thép? Chưa hẳn, vì không cần thiết. Mẹ Thiên nhiên
mang phong cách của một người có lối làm việc chỉ bỏ ra công sức tối thiểu (minimalist)
nhưng muốn đạt hiệu quả tối đa. Cho nên thiên nhiên rất bảo thủ trong thiết kế,
không muốn tạo ra nhiều loại xương có thành phần khác nhau cho các độ lớn hay
chủng loại khác nhau. Xương của một sinh vật nhỏ như chuột, mèo và to lớn như
voi hay trung bình như con người đều được thiên nhiên tạo ra cùng thành phần và
có cơ tính giống nhau. Nhưng sự di chuyển của những sinh vật to lớn có khuynh
hướng chậm rãi, từ tốn hơn sinh vật nhỏ. Voi không nhảy nhót, tung tăng như
chuột và gãy xương thường xảy ở những động vật to lớn.
Xương
là một composite giữa sợi protein collagen và các hạt tinh thể HA mà ta có thể
xem như hạt nano gốm (ceramic). Như vậy, xương là một kết hợp hài hòa giữa nhu
(collagen) và cương (hạt gốm HA) và hình thành "từ dưới lên". Trước
hết, ta có amino acid (độ lớn 1 nm) là đơn vị cơ bản tạo thành protein collagen
(300 nm). Collagen sẽ kết tập thành sợi collagen (1 mm) được gia cường bởi các
tinh thể nano HA hình thành bởi sự khoáng hóa. Đây là sợi cơ bản của xương. Các
sợi này sẽ tạo nên chùm sợi (10 mm), rồi kết tập thành lớp sợi (50 mm). Những
lớp sợi sẽ tạo ra một cấu trúc hình ống gọi là osteon (100 mm), đơn vị chức
năng của xương (50 cm). Như thế, xương có thể xem như là một composite sinh học
có chất nền là collagen được gia cường bởi những hạt gốm HA. Sự hình thành của
xương hoàn toàn là do cơ chế tự lắp ráp (self-assembly) có tôn ti. Từ amino
acid đến xương ta có 7 bậc tôn ti (Hình 1).
Hình 1: Cấu trúc tôn ti của xương từ mức vi mô (nanomét) đến mức vĩ mô (centimét).
Mineral
crystals: tinh thể khoáng (hạt gốm), fibril: sợi tơ, fiber: chùm sợi (Google
search).
Nếu
chỉ nhìn vật liệu một cách phiến diện và chỉ đơn thuần qua cơ tính, các loại
composite nhân tạo được chế tạo bằng epoxy với sợi carbon có độ bền cứng tương
đương với xương và rất phổ biến trong công nghệ ô tô, tàu thủy. Trong thể thao
điền kinh có một vận động viên người Nam Phi tên là Oscar Pistorius. Pistorius
khuyết tật không có hai chân, nên được gắn hai "chân" làm bằng
composite được chế tạo từ epoxy và sợi carbon. Anh chạy đua điền kinh với các
vận động viên đầy đủ tứ chi đạt được những thành tích đứng đầu. Có một lúc anh
bị cấm tham gia vì chuyên gia phân tích cho thấy đôi chân nhân tạo của anh có
tính đàn hồi nhiều hơn chân thật nên anh có nhiều lợi điểm khi tranh đua. Việc
này làm ta tự hỏi xương có thực sự là một sản phẩm tối ưu làm khung di động cho
muôn loài động vật?
Nhưng
khi chúng ta nhìn toàn diện, composite sợi carbon chỉ là một sự pha trộn đơn
giản giữa hai vật liệu, epoxy và sợi carbon, mà không có một tôn ti đi từ mức
vi mô đến mức vĩ mô như xương. Vì vậy, sự gia cường cũng không có tôn ti và khi
có một tác lực từ ngoài lên composite cơ chế hấp thụ năng lượng duy nhất là sự
kéo giãn của sợi carbon. Ngược lại, thiên nhiên đã thiết kế xương để di động,
chạy nhảy, từ ngày này qua ngày nọ, năm này đến năm kia cho đến suốt đời. Thiên
nhiên còn đã dự phòng ngay từ thang phân tử cho việc chống gãy nứt và tự chữa
(self-healing) nếu sự gãy nứt xảy ra. Composite sợi gia cường nhân tạo không có
những đặc tính này.
Một
vật liệu có độ chống gãy nứt cao khi nó có khả năng hấp thụ năng lượng của chấn
động và va đập mà nó phải hứng chịu. Vật liệu giòn như thủy tinh dễ bị gãy nứt
nhưng thép bền dai vì thép có khả năng hấp thụ năng lượng cao hơn thủy tinh. Để
hiểu rõ sự gãy nứt, đổ vỡ của vật liệu, Alan A. Griffith (1893-1963) kỹ sư cơ
khí người Anh, đã đưa ra một tiêu chuẩn gọi là độ dài vết nứt tới hạn (critical
crack length), ac. Theo Griffith, độ dài này được diễn tả một
cách định tính như sau [2],
ac ~ Năng lượng cần
thiết tạo ra vết nứt / Năng lượng tích trữ do sức căng
Năng
lượng cần thiết là năng lượng bề mặt (surface energy) và năng lượng tích trữ
liên quan đến ứng suất (lực tác dụng) và độ cứng (mô-đun Young).
Trong
mọi vật liệu đều có những vết nứt tiềm ẩn, một phần được tạo ra ngẫu nhiên
trong lúc chế tạo thành phẩm, một phần gây ra bởi va đập, trầy xước trong lúc
sử dụng. Khi vật liệu hứng chịu một ngoại lực, thì ac tương
ứng có thể tính được theo lý luận Griffith (Phụ lục). Lúc đó, nếu những vết nứt
tiềm ẩn nhỏ hơn độ dài ac thì an toàn. Nếu lớn hơn thì sự gãy
đổ xảy ra bất thần, rất nhanh vì vận tốc triển khai của vết nứt tương đương với
vận tốc tiếng động trong không khí. Trong một tích tắc, cầu sẽ sập, tàu sẽ gãy
và máy bay sẽ rớt. Để hình dung sự lợi hại của tiêu chuẩn Griffith, hãy tưởng
tượng một quả bong bóng được thổi phình. Vì là cao su nên năng lượng cần thiết
tạo ra vết nứt rất nhỏ, nhưng năng lượng tàng trữ bởi sức căng rất to. Cho nên,
độ dài ac rất ngắn khoảng vài micromét (μm, phần ngàn của milimét).
Chỉ cần dùng cây kim châm nhẹ tạo vết nứt (đầu nhọn cây kim có đường kính 0,5
mm = 500 μm dài hơn ac) thì bong bóng nổ "pop" nghe
giòn tai. Một hiện tượng bình thường nhưng ít người đặt câu hỏi vì sao cây kim
làm nổ bong bóng. Tương tự, ta hình dung dễ dàng thủy tinh là vật liệu giòn dễ
vỡ vì năng lượng để tạo ra vết nứt trong thủy tinh nhỏ (xem Phụ lục để biết
phương pháp tính ac của thủy tinh).
Tiêu
chuẩn ac của Griffth đơn giản nhưng cũng là một cơ bản để
chọn lựa vật liệu thiết kế từ cái cầu, chiếc tàu đến một con ốc. Về việc chọn
lựa vật liệu cho một cấu trúc lớn như cây cầu hay chiếc tàu làm bằng thép,
người ta phải thiết kế sao ac có độ dài ở khoảng một vài mét.
Theo phương trình P9 (Phụ lục) của Griffith, để có được tiêu chuẩn này độ bền
của thép phải nhỏ nên người ta sẽ chọn loại thép mềm (mild steel). Nhưng để chế
tạo một con ốc vặn, ta không cần ac dài 1 mét mà chỉ cần
trong khoảng 1 cm. Như vậy, ta có thể dùng loại thép có độ bền cao (high
tensile strength) cho các loại ốc mà khi ta siết mạnh mà không sợ bị phá vỡ.
Trở
lại sự gãy nứt của xương. Thiên nhiên thật sự rất chu đáo đã thiết kế xương có
những cơ chế chống gãy nứt, hay nói cách khác, xương có sự gia cường với tôn ti
từ cấp vi mô, ở mức độ phân tử, cho đến cấp vĩ mô. Cái nhu của collagen làm cho
xương có khả năng hấp thụ năng lượng như cao su. Khi xương bị lão hóa, collagen
không còn bền và "nhu" như lúc trẻ mà trở nên giòn nên sự hấp thụ
năng lượng giảm đi. Cái cương của HA ngăn bước tiến của vết nứt bằng cách gia
cường các sợi (fibril) collagen (1 mm), gia tăng độ bền và độ dai của collagen.
Trong các composite nhân tạo người ta thường dùng chất độn cứng để gia cường,
bê tông có chứa đá sỏi là một thí dụ dễ hiểu nhất. Nhưng kích cỡ của chất độn
không được lớn hơn độ dài tới hạn Griffith của vết nứt. Nếu kích cỡ đá sỏi
trong bê tông quá to thì sự gia cường cho xi măng trở nên vô nghĩa. Tệ hại hơn,
đá sỏi sẽ trở thành điểm nhấn nơi đó ứng suất bị phóng đại nên khi có ngoại lực
tác động viên đá sỏi này sẽ là điểm xuất phát các đường nứt và phá sập toàn bộ
bê tông. Ở điểm này, thiên nhiên dường như cũng đã hiểu được ý nghĩa và tính
toán được độ dài tới hạn Griffith để thiết kế hạt gốm HA ở mức nanomét. Kích cỡ
của hạt gốm HA nhỏ hơn rất nhiều độ dài vết nứt tới hạn của xương.
Khi
xương bị một chấn động mạnh vì trợt té hay từ một cú nhảy từ trên cao, việc gì
sẽ xảy ra theo tôn ti từ dưới lên trên của xương. Ta hãy xem khúc phim quay
chậm cho thấy xương phản ứng ra sao trước một xung lực từ vi mô đến vĩ mô.
Trước hết, các phân tử collagen có hình xoắn như chiếc lò xo sẽ bị kéo giãn bởi
lực tác động. Các phân tử collagen trượt lên nhau và các nối liên phân tử
(intermolecular bond) như nối hydrogen, nối ion sẽ gãy đứt. Như vậy, ở mức phân
tử, sự kéo giãn, trượt và gãy đứt đã hấp thụ một phần năng lượng va đập áp đặt
từ bên ngoài. Các loại nối là "vật hy sinh" nhưng sau đó chúng sẽ
được hình thành trở lại.
Đi
lên một mức cao hơn ở micromét và milimét, các chùm sợi collagen được gia cường
bởi HA cũng bị kéo giãn và đứt (Hình 2). Nhờ vào quá trình này, vết nứt không
đi tới. Khi lên đến mức vĩ mô cấp centimét, các chùm sợi collagen kết tập thành
từng lớp ở nhiều hướng khác nhau để hình thành osteon hình ống bền chắc (~ 10
cm). Osteon hành xử như chất độn cứng khiến cho vết nứt một mặt lệch đi hướng
khác và một mặt làm cùn đầu vết nứt (Hình 2). Khi vết nứt bị cùn đầu thì ứng
suất ở đầu vết nứt giảm đi rất nhiều và ngăn chặn sự lan truyền của vết nứt
[3].
http://www.diendan.org/khoa-hoc-ky-thuat/nhung-bai-hoc-tu-thien-nhien/hinh-2.png
Hình 2: (a) Ở cấp vi mô micromét, những chùm sợi collagen được cường hóa
bởi hạt gốm HA, hấp thụ năng lượng va đập qua việc kéo giãn sợi làm giảm
sự lan truyền vết nứt. (b) Ở cấp vĩ mô milimét và centimét,
những ống osteon hành xử như chất độn cứng làm lệch hướng đi
và làm cùn đầu vết nứt ngăn chặn sự lan truyền của vết nứt.
Hình 2: (a) Ở cấp vi mô micromét, những chùm sợi collagen được cường hóa
bởi hạt gốm HA, hấp thụ năng lượng va đập qua việc kéo giãn sợi làm giảm
sự lan truyền vết nứt. (b) Ở cấp vĩ mô milimét và centimét,
những ống osteon hành xử như chất độn cứng làm lệch hướng đi
và làm cùn đầu vết nứt ngăn chặn sự lan truyền của vết nứt.
2.2
Vỏ bào ngư
Một
tuyệt tác khác của thiên nhiên là mai rùa, vỏ bào ngư (xa cừ), ốc hến, tôm cua,
các loài mà ta thường gọi là "hải sản"… Ta thường "thưởng
thức" chúng, chén chú chén anh với vài cốc bia, lắm lúc bực bội với cái vỏ
che thân vô cùng bền cứng của chúng. Nếu dùng từ văn vẻ khoa học thì bào ngư,
ốc hến được gọi là loài ngoại cốt (xương bên ngoài, exoskeleton) trong khi động
vật có vú là loài nội cốt (xương bên trong, endoskeleton). Chỉ ở vị trí trong
hay ngoài, thiên nhiên đã có sự thiết kế khác nhau. Bộ xương là khung cho sự di
động, trong khi vỏ là một thứ áo giáp bảo vệ thân thể. Thoạt nhìn, vỏ của các
loài nghêu sò ốc hến xem như không gì liên quan đến các bộ chén dĩa trong nhà
bếp, gạch men đắt tiền, xinh đẹp dùng để trang trí nhà cửa, nhưng về chất liệu
chúng có nhiều điểm tương đồng. Chúng cùng được hình thành từ chất vô cơ (chiếm
95%), carbonate cho vỏ sò và oxide cho các bộ chén đĩa gốm sứ. Nhưng ta sẽ nhận
thấy được sự khác biệt rất lớn khi ta lỡ tay đánh rơi chúng. Trong khi chén đĩa
sẽ bể tan tác thì vỏ sò các loại vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí có nhiều loại vỏ
không gì hề hấn dù bị chọi mạnh vào đá. Phấn viết bảng cùng có hợp chất calcium
carbonate như vỏ sò, bào ngư, nhưng sự khác nhau một trời một vực về sự bền
cứng của viên phấn và vỏ bào ngư là một thường thức. Nói một cách định lượng,
vỏ bào ngư có cơ tính 3.000 lần lớn hơn viên phấn.
Đó
là kinh nghiệm thường ngày, nhưng tại sao cơ tính lại có sự khác biệt to lớn
như vậy? Để trả lời câu hỏi này ta thử nhìn vào cấu tạo của vỏ bào ngư qua kính
hiển vi. Trong kính hiển vi vỏ bào ngư được hình thành bởi những mảnh gốm phẳng
có độ dày khoảng 1 µm giống như bức tường gạch được chồng chập một cách trật tự
bởi người thợ nề (Hình 3). Cấu trúc này hoàn toàn khác với xương động vật và rõ
ràng là một áo giáp phòng vệ chống những xung kích đến từ bên ngoài. "Xi
măng" của cấu trúc này là một loại protein làm dính các mảnh gốm này lại
với nhau.
(b)
|
|
Hình
3: (a) Vỏ bào ngư và (b) vết nứt là một đường khúc khuỷu (Google search).
|
Vỏ
bào ngư là hình ảnh vi mô của một chồng gạch dính vào nhau bằng xi măng. Khi có
một lực đập mạnh từ ngoài thì vết nứt sẽ đi theo dọc đường "xi măng"
giống như bức tường. Cơ chế làm lệch hướng đi và cùn đầu vết nứt của osteon
trong xương được lặp lại trong vỏ bào ngư. Như trong Hình 3, vết nứt là một con
đường đi khúc khuỷu dọc theo lớp "xi măng". Ta thấy đường khúc khuỷu
làm cho vết nứt không thọc sâu vào trong. Điều này giải thích được hiện tượng
một mảnh gốm sứ sẽ dễ vỡ hơn so với vỏ bào ngư có kích cỡ tương đương.
Cấu
trúc bức tường gạch với lớp "xi măng" mềm là một cấu trúc tối ưu cho
áo giáp chống lực tấn công. Nhưng chất "xi măng" của vỏ bào ngư không
đơn giản như xi măng của con người. Nó là chất protein, tức là một vật liệu
mềm, "dính" vào với các mảnh gốm bằng những nối hóa học. Những
"viên gạch" là calcium carbonate chiếm 95% và "xi măng"
protein chiếm 5%. Ta lại thấy sự kết hợp "cương" và "nhu"
trong xương được lặp lại trong vỏ bào ngư trong một sắp xếp khác. Nó cho ta
thấy rằng, dù calcium carbonate là một vật liệu có cơ tính tầm thường, nhưng
cũng như xương, khi có một lực tấn công lên mặt vỏ, các nối hóa học giữa chất
keo protein và mặt gốm sẽ đứt. Vết nứt tiến vào trong môi trường protein mềm.
Vì mềm, nên một phần năng lượng của lực bị hấp thụ làm giảm tiến trình đi tới
của vết nứt.
Nhưng
đây chỉ là một cách nói định tính. Muốn mô phỏng vỏ bào ngư, ta cần con số định
lượng. Nhìn lại Hình 3b và hiểu theo thường thức, nếu những viên gạch quá mỏng
và quá dài, đường đi của lực không phải là đường khúc khuỷu mà sẽ là đường
thẳng phá vỡ những viên gạch. Nhưng thiên nhiên rất thông minh, đã tính toán và
có đáp áp tối ưu với những con số thích ứng về độ dài ngắn, dày mỏng của những
"viên gạch" bào ngư để hướng xung lực đi vào những con đường loanh
quanh nhằm phát tán sức công phá của nó. Như sẽ được đề cập chi tiết ở phần kế
tiếp, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy lời giải này và mô phỏng nó để chế tạo áo
giáp và vật liệu chống công phá.
2.3
Mô Phỏng
Áo
giáp là một công cụ phòng vệ có từ khi loài người xuất hiện, biết chế tạo vũ
khí, tranh dành và đánh nhau. Ngày nay, composite gia cường bởi sợi polymer
Kevlar là một vật liệu thông dụng làm áo giáp hay nón cối chống đạn hay công
phá. Khi chưa có sợi Kevlar, thép vẫn là vật liệu cho áo giáp và nón cối quân
dụng mãi cho đến thời cận đại. Dù các composite sợi Kevlar nhẹ hơn rất nhiều so
với thép nhưng chiếc áo giáp composite cũng không dưới 20 kg. Sự thông dụng của
sợi Kevlar dùng trong áo giáp là do độ dai (toughness) lớn hơn các sợi hữu cơ
hiện có trên thị trường. Vỏ của các loài giáp xác là một thí dụ tiêu biểu của
áo giáp thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên không tạo ra áo giáp cùng một thể loại
cho muôn loài. Tùy vào điều kiện và môi trường sống, vỏ của sinh vật sống dưới
nước đã đi qua quá trình tiến hóa khác nhau để thích nghi với hoàn cảnh. Có
loại mỏng nhẹ như vảy cá để cá có thể di động cho đến loại thật dày như mai
rùa. Dù cho thể loại có khác nhưng trên phương diện cấu trúc và hình thành, Mẹ
Thiên nhiên đều sử dụng những nguyên lý giống nhau.
Nhu
cầu làm áo giáp hay những vật liệu chống công phá lúc nào cũng là một đề tài
nghiên cứu đặc biệt cho các ứng dụng dân sự và quốc phòng. Cũng vì lý do này,
số lượng các công trình nghiên cứu và mô phỏng về các loại vỏ giáp xác nhiều
hơn các công trình nghiên cứu về xương. Để chống sức công phá của một xung lực,
một viên đạn chẳng hạn, vật liệu cần phải hấp thụ phần lớn năng lượng tạo ra từ
sự va đập của viên đạn. Khả năng hấp thụ tùy vào độ bền cứng, độ dai và mật độ
của vật liệu áo giáp. Sự kết hợp và hòa hợp "cương nhu" phải được phát
huy ở mức tối đa. Một trường hợp đơn giản nhất là nguyên lý kết hợp vật liệu
"cương nhu" đã được triển khai cho thân tàu thủy, tàu ngầm và xe bọc
sắt trên chiến trường. Khi một lớp phủ polymer dày vài centimét được áp dính
vào mặt sau của vỏ thép thì sự công phá lên trên mặt thép bị giảm thiểu rất
nhiều nhờ vào sự phân tán xung lực rất hữu hiệu của lớp thép ngoài và sự hấp
thụ năng lượng xung lực của lớp polymer bên trong. Cơ chế hấp thụ năng lượng
của tổ hợp cương nhu này vẫn chưa được hiểu rõ nhưng đã có nhiều mô hình toán
học được lập ra để tối ưu hóa các biến số nhằm phân tán sức công phá và gia
tăng sự hấp thụ.
Đặc
điểm của composite thiên nhiên như xương hay vỏ giáp xác là thành phần
"cương" chiếm 95%. Mô phỏng theo composite thiên nhiên, những composite
nhân tạo dùng polymer (thành phần "nhu") và các mảnh gia cường vô cơ
có kích cỡ nanomét đã được chế tạo theo cấu trúc bức tường gạch của vỏ bào ngư.
Những mảnh nano vô cơ là thủy tinh, silicon carbide (SiC), aluminium boron (AlB2),
mica hay đất sét (clay). Nanocomposite với mảnh nano khoáng chất từ đất sét đã
được nghiên cứu trong nhiều thập niên qua vì giá rẻ và dễ chế tạo. Các
nanocomposite nhân tạo này có cơ tính đạt được đồ bền cứng cao khi các mảnh gia
cường có hàm lượng thấp. Nhưng khi hàm lượng gia tăng hơn 10% thì sự gia cường
mất hiệu lực. Lý do chính là trong khi chế tạo nanocomposite bị pha trộn
"loạn xạ", không có sự sắp đặt tôn ti như composite thiên nhiên.
Việc
mô phỏng vỏ các loài giáp xác để chế tạo các vật liệu chống công phá là một đề
tài nghiên cứu trong hai thập niên qua [4-5]. Trước tiên, chúng ta cần phải
hiểu cấu tạo và kích thước của những "viên gạch". Một nhóm nghiên cứu
tại Thụy Sĩ [6] đã dùng mô hình toán học để tính tỷ số tối ưu giữa chiều dài và
độ dày của những "viên gạch" sao cho vỏ vừa bền (strength) và vừa dai
(toughness). Nói cách khác, khi lực tác động thì lực không phá vỡ các
"viên gạch" gia cường. Nhóm này làm khảo sát thực nghiệm 5 loại vỏ
giáp xác và phát hiện cả 5 loại vỏ đều có những "viên gạch" với tỷ số
giữa chiều dài và độ dày gần với trị số tối ưu của mô hình toán học. Thật là
một điều kỳ diệu. Trong khi con người hiện đại loay hoay với mô hình toán phức
tạp để tính những con số thì Mẹ Thiên nhiên trong quá trình tiến hóa đã đạt
được sự tối ưu từ hàng trăm triệu năm trước.
Dựa
vào những số liệu và tính toán trên, một nhóm nghiên cứu khác [7] mô phỏng vỏ
bào ngư, dùng những mảnh alumina (Al2O3) làm những
"viên gạch" gia cường cho chất nền polymer. Những "viên
gạch" có độ dày tương đương với các mảnh gốm trong vỏ bào ngư (~200 nm) và
chiều dài được thiết kế sao cho tỷ lệ chiều dài và bề dày có trị số tối ưu. Kết
quả cho thấy khi có tỷ lệ tối ưu, các mảnh alumina không bị phá vỡ, nhờ vậy độ
bền được duy trì và xung lực bị phân tán và hấp thụ bởi cơ chế trượt của alumina
nhờ vậy độ dai gia tăng (Hình 4). Nếu mảnh alumina quá dài vết nứt sẽ đi xuyên
qua và phá vỡ mảnh, và nếu quá ngắn sự truyền tải và phân tán lực sẽ mất hiệu
lực. Công trình này đã chế tạo thành công một composite có độ bền cứng và độ
dai chống gãy nứt rất hiệu quả nhờ vào sự điều chỉnh tối ưu bề dày và chiều dài
của những mảnh alumina.
Hình 4: (a) Khi chiều dài của mảnh alumina (viên gạch)
dài hơn trị số tối ưu thì lực sẽ phá gãy các "viên gạch".
(b) Khi có tỷ lệ tối ưu, mảnh alumina vẫn nguyên vẹn và
xung lực bị phân tán và hấp thụ bởi cơ chế trượt của mảnh alumina.
Một
thành quả khác của công trình này là họ chỉ dùng 15% alumina trong chất nền
polymer, 6 lần ít hơn lượng gia cường argonite (~ 95% CaCO3) của vỏ
bào ngư, nhưng độ bền cứng và độ dai to gấp nhiều lần vỏ thiên nhiên này. Nhược
điểm của xương động vật và vỏ giáp xác là khoáng chất vô cơ, không có hợp chất
kim loại. Nhưng ưu điểm của chúng là sự sắp xếp có tôn ti từ phân tử đi lên. Mẹ
Thiên nhiên không có cách nào hơn là dùng ưu điểm để tối ưu hóa nhược điểm.
Nhưng làm sao trong quá trình tiến hóa, Mẹ Thiên nhiên biết rút kinh nghiệm, tự
học hỏi, sáng tạo từ những khoáng chất có cơ tính "tồi" để chế tạo
những sản phẩm dùng suốt đời. Đây là một bí ẩn lớn chưa có lời giải đáp.
Trị
số tối ưu của tỷ số giữa chiều dài và bề dày viên gạch chỉ là một mặt nhỏ của
"bí ẩn" thiên nhiên, nên việc thực dụng hóa công trình này cần nhiều
thời gian nghiên cứu. Chẳng hạn, làm sao có thể dồn được 95% alumina hay các
oxit kim loại như thiên nhiên đã dồn 95% CaCO3 vào vỏ các loài giáp
xác? Ngoài ra, để chế tạo áo giáp chất nền phải là vật liệu mềm như cao su
thích ứng cho sự chuyển động của cơ thể, và phải thông hiểu cơ chế hình thành
của cấu trúc tôn ti. Nếu thực hiện được những điều này thì quả tình con người
có thể chế tạo được một composite bền chắc hơn cả "thành đồng vách
sắt" cho áo giáp, vỏ xe tăng, tàu chiến và tàu ngầm.
Như
trên, chỉ cần 15% alumina và theo nguyên lý của tỷ số tối ưu, người ta đã có
thể chế tạo được một composite tuyệt vời có cơ tính hơn cả vỏ bào ngư. Câu hỏi
của một nhà khoa học ở trên [1] về việc tại sao xương động vật không phải thép
mà chỉ là vôi, thật ra không phải là một câu hỏi ngớ ngẩn. Con người mô phỏng
các vật liệu sinh vật nhưng dùng nguyên liệu tốt hơn để chế ngự những cái mong
manh vốn có trong thế giới sinh vật. Đây mới là đỉnh cao của trí tuệ loài
người! Nhưng con người vẫn còn một quảng đường rất xa, xa lắm để bắt kịp trí
tuệ thiên nhiên.
3.
Giảm lực cản của dòng chảy và da cá
3.1
Các phương pháp giảm lực cản
Giả
dụ ta đang ở trên chiếc du thuyền dạo chơi ngoài biển khơi vào mùa hè rực nắng.
Chiếc thuyền vượt trùng dương, lướt đi lúc nhanh lúc chậm trên mặt biển lung
linh sóng nước. Nhìn vào dòng nước chảy dọc theo mạn thuyền, ta nhìn thấy lúc
thuyền chạy chậm thì dòng nước chảy một cách "hiền hòa", lúc chạy
nhanh thì dòng nước cuồn cuộn nổi sóng, phì phèo bọt nước, tạo ra tiếng ồn phần
lớn gây ra từ sự vỡ của vô số bong bóng nước. Trong thủy động lực học, người ta
gọi dòng chảy "hiền hòa" là dòng tầng (laminar flow) và dòng chảy
cuồn cuộn là dòng rối (turbulent flow). Dòng tầng hay dòng rối cũng có thể quan
sát được dễ dàng từ vòi nước trong nhà. Khi ta mở vòi, vặn nhỏ thì dòng nước
chảy đều đặn, ta có dòng tầng nhẹ nhàng không nghe tiếng động. Nhưng khi vặn to,
dòng nước chảy mạnh, ta có dòng rối phì phèo bọt nước gây tiếng động.
Từ
những quan sát đơn giản trên ta nhận thấy ngay khi vận tốc dòng chảy gia tăng
thì dòng tầng sẽ trở thành dòng rối. Dòng tầng của lưu thể, dù là thể khí hay
thể lỏng, là dòng chảy lý tưởng vì khác với dòng rối nó không gây nhiễu, ít sức
cản gây ra bởi lưu thể và ít tiếng động. Nhưng con người vốn nhiều tham vọng,
chúng ta muốn có dòng tầng dù vận tốc gia tăng. Câu hỏi được đặt ra là: có
phương cách nào để khi gia tăng vận tốc ta có thể khống chế sự chuyển biến dòng
tầng sang dòng rối, duy trì được dòng tầng của lưu thể? Nói cách khác, làm thế
nào để tránh sự xuất hiện của dòng rối khi gia tăng vận tốc? Nguyên lý của thủy
động lực học đã có câu trả lời: làm giảm sự ma sát giữa dòng chảy và vật di
chuyển. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này kéo dài cho đến
nay đã hơn bảy thập niên [8]. Có thể nói đây là một vấn đề quan trọng hàng đầu
cho những vật chuyển động trong lưu thể (không khí, nước), từ một trái banh
golf nhỏ bé đến chiếc máy bay vận tải Antonov khổng lồ, hay từ một con cá mập
hung tợn đến chiếc tàu ngầm chuyển động lặng lẽ trong lòng biển. Nó cũng là một
vấn đề quan trọng cho việc tiết kiệm năng lượng trong việc lưu chuyển các loại
dầu thô trong ống dầu dài hàng mươi ngàn cây số.
Một
trong những phương pháp hữu hiệu để có được dòng tầng là thiết kế hình dạng của
vật chuyển động. Các công ty chế tạo xe hơi hay máy bay đã bỏ nhiều vốn vào
việc tối ưu hóa hình dạng nhằm tránh sự xuất hiện của dòng rối của không khí,
giảm thiểu lực cản gây ra bởi sự ma sát giữa không khí và vật. Những vòng xoáy
(vortex) của dòng rối là nguyên nhân của mọi vấn đề. Chúng gây ra lực cản và
tiếng động. Khi hình dạng được cải thiện những vòng xoáy phiền toái sẽ bị triệt
tiêu (Hình 5), xe hay máy bay có thể chạy hoặc bay nhanh hơn mà ít hao tốn
nhiên liệu.
Hình
5: Tối ưu hóa hình dạng xe để tránh sự xuất hiện của dòng rối với những vòng
xoáy (hình trên) để tạo ra dòng tầng bằng cách nâng mui xe (hình dưới).
Có
lẽ, những người lái xe hơi cảm nhận rõ rệt trong vài mươi năm qua, lượng tiêu
thụ xăng của xe giảm nhờ vào hình dạng xe được thiết kế tối ưu dù phân khối máy
to hơn và xe chạy nhanh hơn. Cũng nhờ vào thiết kế, ta có thể nhận thấy rõ sự
khác biệt giữa xe đời cũ và đời mới khi chạy trên đường cao tốc. Xe đời cũ bị
gió giật mạnh trong khi xe đời mới chỉ là một cái rung nhẹ mỗi lần có xe chạy
ngược chiều. Những người sử dụng máy bay thường xuyên cũng nhận thấy rằng, đầu
tận cùng của đôi cánh máy bay được bẻ cong lên 90° thành hình chữ L. Không phải
để làm cho đẹp mà để triệt tiêu dòng rối ở vùng tận cùng của đôi cánh.
Vấn
đề lưu chuyển dầu thô trong ống dầu xuyên quốc gia dài hàng mươi ngàn cây số,
nhất là đi qua những vùng băng giá, cũng cần phải có một kỹ thuật bơm dầu sao
cho ít tốn hao năng lượng. Vào thập niên 40 mươi của thế kỷ trước, những nhà
nghiên cứu lưu thể đã nhận ra rằng một lượng nhỏ của chất hoạt tính bề mặt
(surfactant), một thành phần chính trong xà phòng, có khả năng làm giảm sự ma
sát giữa lưu thể và thành ống. Nói cách khác, dầu có thể chảy nhanh hơn nhưng
vẫn duy trì được dòng tầng, tiết kiệm rất lớn năng lượng dùng để chống lại sự
ma sát giữa dòng chảy và ống dẫn. Bảy mươi năm sau cho đến ngày nay, việc
nghiên cứu ảnh hưởng giảm ma sát của các loại hoạt tính bề mặt vẫn còn tiếp
diễn.
Một
phương pháp khác là dùng polymer hòa tan trong nước, dung môi hay dầu cho ống
dẫn dầu. Đặc biệt là chỉ cần dùng một vài phần triệu (par per million) lượng
polymer là có thể làm giảm sự ma sát. Nếu ta không triệt tiêu được các vòng
xoáy như trường hợp xe hơi (Hình 5), thì phải mang chúng ra xa hay ngăn chặn
không cho chúng tiếp xúc với bề mặt vật chuyển động. Người ta gọi đây là hiệu
ứng Toms được phát hiện vào năm 1948. Lợi điểm dùng một lượng nhỏ polymer đã
hấp dẫn nhiều công trình nghiên cứu và ứng dụng cho đến nay. Một số lý thuyết
dựa trên thủy động lực học cũng đã được thiết lập nhằm giải thích sự tương tác
giữa phân tử polymer và dòng chảy. Nói một cách đơn giản, polymer như một sợi
dây dài cuộn tròn, khi bị đặt dưới ảnh hưởng lực của dòng chảy thì phân tử
polymer sẽ bị kéo dài ra. Việc biến đổi hình dạng từ dạng cuộn tròn đến sợi dây
thẳng khiến cho độ nhớt (viscosity) của dung dịch polymer gia tăng. Khi dung
dịch này nằm ở vùng tiếp giáp giữa lưu thể và vật thì các vòng xoáy lớn nhỏ của
dòng rối bị "bức tường" dung dịch polymer có độ nhớt cao ngăn chặn
không cho chúng chạm vào bề mặt của vật. Nhờ vậy, sự giảm lực cản xảy ra.
Phương
pháp dùng chất hoạt tính bề mặt và polymer không những thông dụng trong ống dầu
mà còn là đề tài nghiên cứu triển khai liên quan đến các ứng dụng cho tàu
thuyền, vì việc thiết kế hình dạng tàu không có nhiều tự do như trong xe hơi
hay máy bay. Đối với thiên nhiên, việc sử dụng chất hoạt tính hay polymer không
có gì mới lạ. Khi cá bơi, vảy của chúng thường trực tiết ra chất nhờn để duy
trì dòng tầng như chất hoạt tính bề mặt hay polymer. Chất nhờn cũng giúp cho cá
không bị trầy xước khi va vào vật cứng và tránh sự bám dính của rong rêu hay vi
sinh vật.
Trong
quốc phòng, hải quân Mỹ và Liên Xô (cũ) ngay từ thập niên 50 của thế kỷ trước
đã tích cực nghiên cứu việc sử dụng chất hoạt tính bề mặt và polymer xung quanh
tàu ngầm để duy trì dòng tầng và kiềm chế tiếng động khi tàu di động ở tốc độ
cao. Dòng rối và tiếng động là hai nhân tố chết người "thưa ông, con ở bụi
này" mà đối phương dễ dàng phát hiện bằng những thiết bị truy lùng sonar.
Trong phòng thí nghiệm, các kết quả thực nghiệm dùng chất hoạt tính hay polymer
có thể làm giảm sự ma sát từ 50 đến 80%. Một kết quả kinh ngạc vì hiệu quả khá
cao so với lượng nguyên liệu rất nhỏ được sử dụng. Nhưng, nếu áp dụng cho các
tàu thuyền khổng lồ thì sẽ gây ô nhiễm môi trường. Dù là lượng nhỏ, nhưng nếu
tàu thuyền dân sự lẫn quân sự đều dùng chất hoạt tính hay polymer thì biển sẽ
tràn ngập bọt xà phòng và chất polymer.
Một
phương pháp "xanh" hơn là dùng bọt (không khí) vi mô có kích cỡ
khoảng milimét. Công trình nghiên cứu về bọt vi mô làm giảm sự ma sát và lực
cản của dòng chảy đã kéo dài vài thập niên. Dù vậy, cho đến nay (2014) vẫn chưa
có một lý thuyết thích hợp hay mô hình toán học thuyết phục khả dĩ giải thích
được hiện tượng bọt vi mô làm giảm ma sát gây ra bởi dòng chảy [9]. Kết quả
thực nghiệm cho thấy bọt vi mô có thể giảm lực cản đến 80% trên một mặt phẳng,
40% khi dòng chảy trong một đường kênh. Nếu kết hợp bọt vi mô và polymer thì
kết quả cho thấy hai thành phần này rất tương hợp có thể dễ dàng giảm lực cản
đến 80% [10]. Nhưng đây là con số thực nghiệm dựa trên những điều kiện lý
tưởng. Dù vậy, tại Nhật Bản nghiên cứu ứng dụng vẫn tiếp tục cho các loại tàu
có sàn tàu phẳng và chạy chậm như tàu hàng (tanker) (Hình 6) [11]. Kết quả thực
nghiệm trên thân tàu cho thấy lực cản giảm 50% cho tàu dài 12 m và 32% cho tàu
dài 50 m [12]. Thật sự, việc tiết kiệm nhiên liệu nhờ vào bọt vi mô và chi phí
thiết kế và năng lượng tiêu hao cho việc tạo bọt phun dưới sàn tàu là vấn đề mà
chủ tàu cần phải đắn đo suy nghĩ…
Hình 6: Bọt vi mô được phun dưới sàn tàu hàng làm giảm lực cản của dòng chảy [11].
3.2
Da cá heo
Max
O. Kramers là một nhà nghiên cứu thủy động lực học nhưng có cái nhìn rất sinh
học. Ông quan sát sự di động nhanh nhẹn và êm ái của cá heo và nảy sinh ra ý
nghĩ chế tạo một vật liệu mô phỏng da cá heo. Trong thời đại của ông vào thập
niên 50 của thế kỷ trước, khi sinh học là một ngành chỉ có tính miêu tả và gần
như không có gì liên hệ đến vật lý, thì Kramer đã có cái nhìn mô phỏng từ thiên
nhiên. Ông muốn chế tạo "da cá heo nhân tạo" hay là một lớp phủ mềm
(compliant coating) có thể chiều theo áp suất của nước để làm giảm lực cản. Nếu
một vật liệu mềm được phủ lên thân tàu thì những phiền toái do ô nhiễm gây ra
bởi chất hoạt tính và polymer, hay sự tốn kém của máy phun bọt không khí sẽ
không còn là yếu tố đắn đo. Kramer biến ý tưởng này thành một thí nghiệm trên
một hồ nước bằng cách kéo một chiếc tàu con theo sau chiếc tàu mô-tô. Chiếc tàu
con này được phủ lên một lớp cao su bên trong có chứa chất nhớt được chế tạo
giống như biểu bì của cá heo [13-14]. Ông ghi nhận lực cản giảm đến 60%. Là một
công trình tiên phong, kết quả của Kramer bị nghi ngờ trong một thời gian dài
và cho đến 1985 mới được cộng đồng khoa học chấp nhận [15]. Mặc dù các công
trình nghiên cứu tiếp theo công nhận hiệu quả giảm lực cản của lớp phủ mềm,
nhưng khả năng giảm lực cản chỉ có 7%. Con số này vẫn chưa đạt được hiệu quả
của da cá heo thật sự [16].
3.3
Da cá mập
Trong
khi việc nghiên cứu "da cá heo nhân tạo" còn đang tiếp diễn thì công
nghệ nano xuất hiện. Phương thức hình thành "từ dưới lên" của các bộ
phận và hệ thống sinh học khiến cho các nhà khoa học đặc biệt lưu tâm đến da cá
mập. Từ khi con người biết làm tàu viễn dương vài trăm năm trước, người ta nhận
thấy rằng khi mạn thuyền gỗ được đánh nhám dọc theo hướng đi của dòng chảy thì
tàu chạy nhanh hơn. Nhưng đây chỉ cảm nhận và chưa có số liệu chứng minh. Cho
đến thập niên 80 của thế kỷ trước công ty 3M (Mỹ) đã mô phỏng những đường gân
vi mô (riblet) của da cá mập để chế tạo bề mặt polymer chứa những đường gân có
mặt cắt hình răng cưa để dán vào mạn thuyền của những chiếc tàu đua trong các
sự kiện thể thao lớn như Olympic hay American Cup. Những chiếc thuyền này đoạt
giải vô địch tại Thế Vận Hội Los Angeles 1984 và American Cup 1987 khiến cho
ban tổ chức cuộc đua hoảng hốt. Từ đó về sau các loại bề mặt làm thay đổi dòng
chảy bị cấm triệt để. Tại Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008, áo tắm FastSkin của công
ty Speedo mô phỏng da cá mập đã được vận động viên Michael Phelps sử dụng khiến
cho nhiều kỷ lục bơi lội bị bức phá. Speedo hùng hồn tuyên bố cho toàn thế giới
biết rằng áo tắm FastSkin có thể làm giảm lực cản 3% cho nữ và 4% cho nam [17].
Lực cản bị giảm ít hơn ở người nữ vì phần nhô ra ở ngực và hông.
Cũng
như cá heo, cá mập là động vật biển đã có lịch sử tiến hóa hơn 350 triệu năm.
Khi ta nhìn da cá mập bằng đôi mắt trần tục thì da cá trơn tru mịn màng. Nhưng
dưới kính hiển vi người ta nhìn thấy vô số vảy cá li ti có độ lớn khoảng 500 µm
(0,5 mm) (Hình 7). Những vảy này có những đường gân nằm xuôi theo hướng của
dòng chảy. Giữa hai đường gân là một vùng lõm. Cấu trúc này có kích thước
micromét. Như vậy, những vảy micromét này đã có tác dụng như thế nào làm giảm
lực cản? Một thí nghiệm được thực hiện bằng cách thổi một dòng khói đi dọc theo
mặt phẳng và mặt mô phỏng da cá mập [18]. Như Hình 8 cho thấy, khi có dòng rối
thì các vòng xoáy xuất hiện tiếp giáp với mặt phẳng. Vòng xoáy là nguyên nhân
của sự ma sát. Nhưng trên mặt mô phỏng da cá mập, vòng xoáy được nâng ra ngoài
vùng lõm của mặt (Hình 8). Mặt mô phỏng này loại trừ các vòng xoáy ra khỏi khu
vực tiếp giáp với bề mặt vật thể làm giảm lực cản.
Hình
7: Vảy cá mập có kích thước 0,3 - 0,5 mm
nằm xuôi theo dòng chảy (trái sang phải) (Google search).
nằm xuôi theo dòng chảy (trái sang phải) (Google search).
v
= 3m/s
v = 5m/s
Hình
8: Khói dầu được thổi thẳng góc với mặt giấy ở hai tốc độ 3m/s và 5m/s
đi qua mặt phẳng (hình trên) và mặt mô phỏng da cá mập (hình dưới).
Ở cả hai tốc độ, vòng xoáy tiếp giáp với mặt phẳng nhưng bị nâng ra ngoài
vùng lõm trong mặt mô phỏng và thay vào đó là dòng chảy tầng [18].
đi qua mặt phẳng (hình trên) và mặt mô phỏng da cá mập (hình dưới).
Ở cả hai tốc độ, vòng xoáy tiếp giáp với mặt phẳng nhưng bị nâng ra ngoài
vùng lõm trong mặt mô phỏng và thay vào đó là dòng chảy tầng [18].
Theo
sự tính toán của Berchert và cộng sự [19] thì bề mặt mô phỏng chỉ làm giảm lực
cản tối đa là 10%. Nhưng con số này vẫn còn thấp so với độ nhanh nhẹn của con
cá mập. Một cái vẫy nhẹ của kình ngư cũng có thể đưa chúng đi xa vài mươi mét
trong lòng biển với vận tốc 28 km/h (~8 m/s), trong khi cao thủ Michael Phelps
mặc áo tắm FastSkin uốn tới uốn lui thì nhiều lắm di động được 7 km/h (~2 m/s)
trong hồ bơi. Sự quan sát đơn giản này cho thấy, (1) bề mặt mô phỏng chưa có
kích thước tối ưu và (2) cấu trúc hình học không phải là yếu tố duy nhất làm
giảm lực cản của dòng chảy.
Hình 9: Mặt cắt của ba loại bề mặt mô phỏng (từ trên xuống): mặt răng cưa, mặt bán nguyệt và mặt cái giếng. Mô hình toán cho thấy đường cong của vòng xoáy bị nâng ra ngoài vùng lõm [20].
Nhóm
nghiên cứu của giáo sư Bhushan (Ohio State Universtity, Mỹ) [20] dùng mô hình
toán để thay đổi hình dạng và tối ưu hóa kích thước mặt cắt. Họ tạo ra 3 loại
mặt cắt khác nhau: hình răng cưa, hình bán nguyệt và hình cái giếng (Hình 9).
Giống như kết quả thực nghiệm (Hình 8), mô hình toán cho thấy những vòng xoáy
bị nâng ra ngoài các vùng lõm và thay vào đó là dòng tầng có tốc độ chảy thấp
(Hình 9). Dòng tầng này làm cho lực cản giảm đi rõ rệt. Sau khi tối ưu hóa
chiều ngang và chiều cao của vùng lõm, kết quả cho thấy mặt cắt hình cái giếng
tạo ra độ giảm lực cản cao nhất 10%. Nhưng mặt cắt hình cái giếng quá mong manh
cho thực dụng. Hình dạng cái giếng cũng không giống mặt cắt của vảy cá mập. Mặt
mô phỏng hình bán nguyệt giống vảy cá mập nhưng chỉ đạt 7%. Những kết quả này
cho thấy con người vẫn chưa có thể mô phỏng hoàn toàn vảy của cá mập đã có sự
tiến hóa hơn 350 triệu năm. Mặc dù cá mập không thường xuyên tiết ra chất nhờn
như các loài cá nhỏ nhưng chúng cũng tiết ra một lượng rất ít khi cần thiết. Có
thể lượng nhỏ chất nhờn làm thay đổi cơ cấu dòng chảy trong vùng lõm của vảy cá
mập giống như polymer hay chất hoạt tính, nhưng điều này chưa được minh xác.
Theo
các chuyên gia, cơ cấu làm giảm lực cản của da cá heo hay da cá mập có thể vươn
tới cấp nanomét, kích cỡ của vòng xoáy có thể ở nanomét, nghĩa là trong vòng
xoáy micro không chừng chứa vô số vòng xoáy nano. Nhưng hiện nay các nhà nghiên
cứu vẫn còn tìm hiểu những biến số ở cấp micromét. Việc khảo sát thủy động lực
học ở cấp nano vẫn còn trong thời kỳ "mông muội", dù rằng bộ môn vi
lưu (microfluidics) dần dần được hình thành như một khoa học liên ngành nhiều
hứa hẹn. Như vậy, cho đến nay (2014) hiện tượng giảm lực cản của da cá heo và
cá mập vẫn chưa được giải mã toàn diện. Cũng như ở các vật liệu thiên nhiên
khác, tìm hiểu những ẩn số của Mẹ Thiên nhiên vẫn là một thử thách lớn. Các
khoa học gia về ngư học cũng cho biết, vảy cá mập khác nhau tùy vào các loài cá
mập khác nhau. Thậm chí, cùng trên một con cá nhưng vảy khác nhau ở đầu, thân
và đuôi (Hình 10) [21]. Quả thật, sự tiến hóa đã điều chỉnh vảy cá theo từng
chủng loại và trên các phần khác nhau của cùng một con cá sao cho có sự thích
ứng tối ưu với thủy động lực học của dòng chảy để làm giảm lực cản đến mức tối
đa.
Hình
10: Các loại vảy của cá mập tùy theo chủng loại và vị trí (đường gạch = 0,5 mm)
[21].
Ngoài
công ty 3M và hãng áo tắm Speedo, cơ quan NASA, công ty máy bay Boeing, Airbus
tích cực đầu tư vào các công trình nghiên cứu cải tạo bề mặt của tàu vũ trụ và
máy bay. Tấm phim có những đường gân được dán vào thân máy bay làm giảm được 3%
lực cản không khí tương đương với 3% giảm sự tiêu hao năng lượng. Gần đây
(2011), hãng hàng không Đức Lufthansa tạo ra mặt giảm lực cản không khí với một
phương pháp thực dụng hơn bằng cách phủ một lớp sơn lên thân và cánh máy bay
rồi dùng bản khắc có những đường gân nhỏ ép sát lên sơn ướt dọc theo hướng đi
của không khí. Sau khi hoàn thành, lớp sơn có vô số đường gân nhỏ có chiều
ngang 50-60 µm và chiều sâu 20-30 µm, giống như mặt đĩa nhạc xưa. Lớp sơn này
tạo ra độ giảm khiêm tốn 1%, tiết kiệm được 1% phí tổn xăng dầu, trên dưới 1
triệu đô la hằng năm cho Lufthansa.
4.
Mẹ Thiên nhiên và Cơ học Lượng tử
Một
trăm năm trước, dù được xem là hai bộ môn khoa học lớn nhưng sinh học và vật lý
gần như không có một giao điểm nào. Những người nghiên cứu trong hai bộ môn này
làm việc trong cộng đồng của mình theo dạng "đèn nhà ai nấy sáng".
Thử hỏi, làm sao có thể dùng một chuỗi phương trình vi phân, tích phân và những
định luật vật lý để diễn tả cơ chế vận hành của một tế bào, một bộ phận hay hệ
thống sinh học vô cùng phức tạp? Tuy nhiên, cũng có một số nhà vật lý lý thuyết
lừng danh chẳng hạn như Schrödinger đã chú ý đến cơ cấu và cơ năng của những
phân tử "sống". Sau khi phát hiện phương trình sóng vật chất, một trong
những cột trụ to lớn của cơ học lượng tử, Schrödinger đã chuyển hướng nghiên
cứu của mình sang sinh học để tìm giải đáp về sự sống. Vào năm 1943, tại giảng
đường của Đại học Trinity (Dublin, Ireland) Schrödinger giảng một loạt bài,
không phải là vật lý mà về sinh học với tựa đề "Sự sống là gì?"
(What is life?). Trong các bài giảng này, lần đầu tiên ông đưa ra những khái
niệm về mã di truyền mà sau này người ta biết nó như là "thông tin"
di truyền trong phân tử DNA.
Sự
quan tâm của các nhà vật lý tạo ra những niềm phấn kích mới khiến cho bộ môn
sinh học trở nên sinh động. Từ đó, các nhà nghiên cứu sinh học mang một bộ môn
có tính miêu tả "hoa lá cành" tiến sâu hơn vào cõi vi mô để tìm hiểu
cơ chế sinh học ở mức phân tử. Bộ môn "sinh học phân tử" ra đời. Tuy
nhiên, sinh học không dừng ở đây. Càng đi sâu vào vùng vi mô sinh vật, người ta
tìm thấy những phân tử sinh học mang những cơ năng giống như các thiết bị vĩ
mô, nào là động cơ phân tử biết di động, biết xoay, biết chuyên chở như xe tải,
biết tích trữ năng lượng như pin, tụ điện hay những enzyme có chức năng xúc
tác. Những triển khai này đưa đến một câu hỏi kế tiếp là: cơ học lượng tử có
vai trò gì trong sinh học? Hứng khởi về các phân tử "sống" của
Schrödinger đã đưa đẩy ông vào nghiên cứu sinh học, nhưng dù là một nhà vật lý
lượng tử lúc đó ông vẫn chưa có câu trả lời khẳng định. Cơ học lượng tử đã
nhanh chóng khai sinh ra bộ môn "Hóa học lượng tử" dùng phương trình
sóng Schrödinger và các phép gần đúng (approximation method) để định lượng cấu
trúc nguyên tử, phân tử, phản ứng hóa học và các vấn đề liên quan đến hóa học.
Hóa học lại là nhịp cầu giữa vật lý và sinh học. Như vậy, nghĩ theo lô-gic nếu
có "Hóa học lượng tử" thì tại sao "Sinh học lượng tử" lại
không?
Giáo
sư Seth Lloyd của Viện Công nghệ Massachussetts (MIT, Mỹ), một chuyên gia hàng
đầu về vi tính lượng tử, cho rằng vũ trụ của chúng ta đã được trang bị bằng
những hành trang lượng tử ngay thời điểm nó được khai sinh từ cuộc nổ lớn (big
bang) 14 tỷ năm trước [22]. Nói cách khác, vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ
của cơ học lượng tử. Những nguyên tố hiện hữu trong vũ trụ trong đó hydrogen là
một nguyên tố cơ bản nhất là những vật chất bền. Chúng bền là do đặc tính của
cơ học lượng tử. Hãy nhìn cấu trúc của hydrogen trong đó electron mang điện tích
âm quay quanh hạt nhân chứa proton mang điện tích dương. Nếu nguyên tử hydrogen
chỉ tuân theo các định luật của cơ học cổ điển (phi lượng tử), thì electron sẽ
bị cuốn vào proton trong một khoảnh khắc rất nhỏ của một giây, và cuộc đời của
hydrogen sẽ chấm dứt với một ánh lòe bức xạ. Hydrogen sẽ không có thời gian
tổng hợp làm ra các nguyên tố khác. Nếu như vậy, sẽ không có vũ trụ chứa vật
chất mà chỉ toàn là bức xạ. Bức xạ vốn là cái lý thú, nhưng nó không phải là
cái làm ra sự sống.
4.1
Quang hợp
Tiếp
theo cuộc nổ lớn, giáo sư Lloyd cho rằng trong 14 tỷ năm qua vũ trụ vẫn tiếp
tục triển khai, nở rộng mà cơ chế hình thành của nó, kể cả sự hình thành của sự
sống, sự tiến hóa và sự chọn lọc tự nhiên Darwin của muôn loài trên quả đất
cũng tuân thủ theo những quy luật lượng tử. Lloyd đã có một cái nhìn độc đáo
với một chút phá cách về sinh học và thiên nhiên. Dù quan điểm của Lloyd chưa
được hoàn toàn thực chứng bằng quan sát và thực nghiệm, nhưng nhiều năm gần
đây, rong ruổi theo ngọn sóng thần của nền công nghệ nano sinh học, người ta
quan sát được một số hiện tượng sinh học mà cơ chế của chúng được chế ngự bởi
quy luật lượng tử. Quang hợp là một thí dụ.
Quang
hợp là một lĩnh vực được các nhà vật lý sinh học đặc biệt quan tâm. Cho đến
nay, quang hợp vẫn là một bí ẩn của tạo hóa mà con người rắp tâm giải mã. Phản
ứng quang tổng hợp là quá trình chuyển hoán năng lượng mặt trời thành hoá năng
(thường ở dạng đường) trong lá thực vật, rong rêu và một số vi khuẩn. Sự hiện
diện giữa ánh sáng mặt trời và diệp lục tố (chlorophill) của lá cây hay lục tố
vi sinh (bateriochlorophyll) của vi khuẩn có chức năng xúc tác biến nước được
cung cấp từ rễ và carbon dioxide (CO2) từ không khí thành năng lượng
dưới dạng đường glucose và oxygen theo một công thức đơn giản,
6H2O
+ 6CO2 + năng lượng mặt trời ──> C6H12O6
(đường glucose) + 6O2
Công
thức này khi được viết ra trên giấy mực xem ra không gì khó khăn, nhưng khi
quan sát những gì xảy ra ở mức phân tử thì là một quá trình nhiều khê và vô
cùng phức tạp. Chẳng hạn, dù gọi là chất xúc tác nhưng người ta vẫn chưa rõ cơ
chế xúc tác của diệp lục tố hay lục tố vi sinh trong quang hợp ra sao.
Vào
năm 2007, Flemming và các cộng sự đã làm một thí nghiệm [23-24] trên phức chất
Fenna-Matthews-Olson (FMO), một phân tử to lớn trong vi khuẩn lưu huỳnh xanh
(green sulfur bacterial). Vi khuẩn này tìm thấy dưới biển sâu 2.000 m, sinh
sống và sinh sản nhờ vào quang hợp. Vì sống dưới biển sâu nên gần 100% những
tia nắng hiếm quý đều được chúng biến thành thực phẩm (hóa năng). Phức chất FMO
chứa các phân tử lục tố. Phức chất này được kẹp ở giữa một dàn
"ăng-ten" (chlorosome) và trung tâm phản ứng. Trong quá trình quang
hợp, thoạt đầu photon sẽ bị hấp thụ bởi dàn ăng-ten. Năng lượng photon kích
hoạt hệ thống sinh học tạo thành các exciton chứa năng lượng đi vào phức chất
FMO. Tia sáng mặt trời là tia của vô số hạt photon bắn ra như dòng nước. Khi
tia sáng mặt trời chạm vào con vi khuẩn hay bề mặt của lá cây giống như dòng
nước chạm vào mặt đường sẽ tạo ra những hạt nước văng tung tóe. "Hạt nước"
là exciton. Exciton là hạt cặp đôi, một hạt chứa điện tích dương và hạt kia
chứa điện tích âm. Phức chất FMO hướng exciton về trung tâm phản ứng, nơi này
năng lượng exciton sẽ được chuyển hóa thành hóa năng theo công thức trên. Đến
đây thì mọi việc bình thường, không có gì ngạc nhiên. Nhưng trong quá trình
khảo sát, một khám phá khiến cho Flemming và các cộng sự sửng sốt là phức chất
FMO có thể truyền dẫn 99% exciton tới trung tâm phản ứng.
Hãy
tưởng tượng một anh chàng lãng tử "đưa em tìm động hoa vàng" hun hút
trong một cánh rừng nguyên sinh bao la mà không trang bị GPS, la bàn hay bản
đồ. Ai cũng sẽ nghĩ chàng lãng tử này đúng là một kẻ điên rồ vì hậu quả sẽ là
"từ chết đến bị thương". Việc này cũng tương tự như exciton è ạch
mang những bó năng lượng mặt trời đi tìm trung tâm phản ứng trong một hệ thống
phân tử khổng lồ, lằng nhằng và phức tạp của một mê cung. Exciton sẽ nhảy lòng
vòng trong cái phân tử khổng lồ đó và xác suất để nó tìm đường tiến đến trung
tâm phản ứng hầu như là con số không. Nhưng kết quả của nhóm Flemming cho thấy
99% tới đích. Thế này là thế nào? Hay nói cách khác, 99% năng lượng mặt trời
được chuyển tải thành công đến trung tâm phản ứng để cho sự quang hợp xảy ra
[25].
Nếu
ta lý giải dựa trên trực cảm thông thường của cơ học cổ điển Newton và xem
exciton hành xử như hạt cổ điển: hạt chỉ là hạt, thì năng suất chuyển tải 99%
của phức chất FMO là một điều kỳ bí. Nhưng, nếu ta nghĩ theo tư duy "tính
nhị nguyên" của cơ học lượng tử trong đó "hạt cũng là sóng, sóng cũng
là hạt", thì exciton không hành xử như hạt mà là sóng. Khi exciton hành xử
như sóng thì nó lan tỏa rất nhanh trong toàn thể phức chất, biết sử dụng quyền
lượng tử của mình chiếm cứ toàn bộ các điểm khả dĩ cùng một lúc, rồi tiến vào
trung tâm phản ứng trong một khoảnh khắc cực kỳ nhỏ của một giây. Trong tư duy
này, Flemming so sánh con vi khuẩn lưu quỳnh xanh biết sử dụng thuật toán lượng
tử như máy tính lượng tử nhân tạo.
Công
trình của nhóm Flemming nổ ra như một quả bom, khẳng định sự chuyển tải năng
lượng theo đúng quy luật lượng tử mà cộng đồng nghiên cứu sinh học phân tử đã
nghi ngờ và gần như phủ nhận sự hiện hữu của nó trong nhiều năm qua. Sự nghi
ngờ này dựa trên một suy luận đơn giản là phần lớn sự sống tồn tại trong một áp
suất bình thường 1 atm và ở nhiệt độ bình thường 20 - 40°C. Bình thường đối với
ta nhưng quá nóng để những hiệu ứng lượng tử xuất hiện. Cho nên khi bài báo cáo
của nhóm này đăng trên tạp chí Nature [23], tờ New York Times
giật tít loan tin việc con vi khuẩn dưới biển sâu biết làm thuật toán lượng tử
để sống còn khiến cho toàn thể cộng đồng nghiên cứu vi tính lượng tử của loài
người rúng động ! Có thật sự là con vi khuẩn biết nhiều "mánh"
hơn chuyên gia vi tính lượng tử ? Seth Lloyd thoạt đầu nghi ngờ ai đó nổi
hứng pha trò, nhưng sau đó ông bị cuốn hút vì chuyện này không
"phịa".
Giáo
sư Lloyd tạo ra một mô hình toán học đi sâu hơn vào chi tiết [22]. Ông cho rằng
exciton biết thực hiện một thuật toán lượng tử gọi là "bước lượng tử"
để truy lùng mục tiêu. Bằng bước lượng tử, exciton "đi" xuyên qua một
cấu trúc phức tạp nào đó và dùng kết hợp lượng tử (quantum coherence) [26] tầm
xa để tìm đường tiến đến những nơi trong cấu trúc mà đối với hạt cổ điển là
những nơi bị che khuất. Cái khả năng lan tỏa trên toàn thể một cấu trúc cùng
lúc của exciton là nhờ bước đi với điệu bộ kết hợp (coherently) để tiến đến mục
tiêu của nó. Khái niệm "bước lượng tử" (quantum walk) hay "kết
hợp lượng tử" là những điều kỳ quái và phản trực giác. Nhưng, những kỳ
quái này thực sự hiện hữu trong thế giới vi mô.
Một
cách ngẫu nhiên, máy tính lượng tử là một thiết bị lưu trữ và xử lý thông tin
bằng thuật toán lượng tử dựa vào những khái niệm "bước lượng tử" hay
"kết hợp lượng tử". Dựa vào sự truy lùng lượng tử giống như exciton
đi tìm mục tiêu, máy tính lượng tử có thể tính toán và tìm cơ sở dữ liệu
(database) nhanh hơn máy tính cổ điển. Nhưng để có một máy tính lượng tử có thể
thực hiện các phép tính toán lượng tử thì máy phải được đặt trong những hệ
thống cô lập cao độ và ở nhiệt độ rất gần zero độ tuyệt đối (-273 °C). Sự dao động
nhiệt dù rất nhỏ, những tác động gây rung dù rất nhẹ hay ảnh hưởng của sóng
điện từ bên ngoài dù rất ít cũng đủ đánh sập "kết hợp lượng tử" và
làm tiêu ma các thuật toán lượng tử.
Công
trình của nhóm Flemming cho thấy kết hợp lượng tử xảy ra ở nhiệt độ thấp
(-196°C). Nhưng vài năm sau đó Panitchayangkoon và cộng sự [27-28] cho biết kết
hợp lượng tử có thể kéo dài đến nhiệt độ ~ 25 °C. Một nhóm nghiên cứu khác cũng
khám phá các loài rong biển cũng thực hiện bước lượng tử tầm xa trong phản ứng
quang hợp ở nhiệt độ bình thường [29]. Từ những nghiên cứu đột phá này, chúng
ta phải công nhận rằng đây là một hiện tượng rất lạ lùng. Trong khi máy tính
lượng tử của con người phải rất chật vật làm con toán, thì exciton có thể thoải
mái làm thuật toán lượng tử cho việc truy lùng mục tiêu xảy trong tế bào của vi
khuẩn, rong rêu, thậm chí lá cây của các loài thực vật. Tế bào lại là một hệ
thống mở (không cô lập) như giống cái chợ cá đủ mọi hoạt động lớn nhỏ, ra vào
nhộn nhịp, rất ồn ào, ẩm ướt, nóng (25 - 40 °C) và liên thông với môi trường
xung quanh. Một lần nữa ta lại phải đặt câu hỏi, " Thế này là thế
nào ? ".
Khả
năng thực hiện những hiệu ứng lượng tử của các hệ thống sinh học trong những
điều kiện bình thường mang nhiều kinh ngạc lẫn hoang mang đến các nhà nghiên
cứu vi tính lượng tử vì nó quá lý tưởng, trên cả tuyệt vời ! Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều việc phải làm để xác thực điều này như một chân lý [30]. Thứ
nhất, cho đến nay (2014) các thí nghiệm chỉ được thực hiện ngoài tế bào và chưa
có những bài báo cáo và số liệu về thí nghiệm trong môi trường tự nhiên của tế
bào. Thứ hai, cần phải có nhiều số liệu chứng minh hiệu ứng lượng tử xảy ra
trong quang hợp của các loài thực vật. Cơ cấu của phức chất FMO và môi trường
quang hợp của thực vật phức tạp và gập ghềnh hơn vi khuẩn, rong rêu, nên
"bước đi lượng tử" sẽ khó khăn hơn. Liệu phức chất FMO có thể duy trì
được con số 99% trong việc chuyển tải năng lượng trong thực vật? Chúng ta hãy
chờ những bài báo cáo thú vị sẽ xuất hiện trong vài năm tới.
4.2
La bàn của loài chim
Khả
năng cảm ứng từ của các loài côn trùng hay động vật cho việc định hướng đã và
đang là một đề tài nghiên cứu thú vị và nhiều thử thách. Các công trình nghiên
cứu hơn nửa thế kỷ qua cho thấy ngoài loài chim còn một số sinh vật như cá hồi,
rùa biển, tôm hùm, ong, ruồi có khả năng cảm từ và biết tận dụng từ trường của
quả đất để định hướng. Tiếc thay, con người không có khả năng cảm từ trừ khi
cầm trong tay cái la bàn định hướng. Một số chim như bồ câu có những hạt sắt từ
tính hành xử như cục nam châm nằm ở mỏ giúp chúng định hướng và phân biệt hướng
Bắc và Nam. Trường hợp bồ câu xem ra tương đối rõ ràng nhưng loài chim di trú
theo mùa như chim robin châu Âu (European robin) không có nam châm ở mỏ nên
dường như có một cơ chế cảm từ khác. Khác với sinh vật có hạt tinh thể sắt từ
tính phân biệt được hướng Bắc và hướng Nam, chim robin không phân biệt được Bắc
Nam mà chỉ định hướng nhờ vào sự cảm nhận góc của từ trường quả đất đối với mặt
đất. Chẳng hạn, ở đường xích đạo, từ trường song song với mặt đất, góc này là
zero độ, càng tiến về cực quả đất góc càng nghiêng và trở thành 90 độ ở Bắc cực
và Nam cực (Hình 11).
Hình
11: Góc của từ trường quả đất đối với mặt đất biến thiên theo vị trí; song song
(0°) ở xích đạo và thẳng góc ở Bắc và Nam cực (90°) (Google search).
Vì
không có hạt sắt từ tính, nên có giả thuyết cho rằng chim robin cảm từ bằng
phản ứng hóa học [31]. Khi nói đến phản ứng hóa học, thì ta nghĩ ngay nó là một
quá trình biến đổi chất A thành chất B bằng cách phá vỡ các nối hóa học để tạo
thành nối mới. Từ trường của quả đất rất nhỏ chỉ có 5 x 10-5 Tesla,
so với nam châm gia dụng nhỏ (5 x 10-3 Tesla) gắn vào cửa tủ lạnh
thì 100 lần nhỏ hơn. Như một làn gió thoảng so với trận cuồng phong. Vì năng
lượng của từ trường quả đất quá thấp, 10 - 100 lần nhỏ hơn năng lượng của một
nối hóa học, từ trường quả đất không thể nào đủ sức kích động một phản ứng hóa
học hiểu theo nghĩa thông thường để tạo bộ cảm ứng từ cho chim. Nhưng các loài
chim di trú như robin vẫn có thể bay thoải mái xuyên lục địa hàng chục ngàn cây
số mà không bao giờ lạc lối. Khả năng cảm từ của chim robin quả là đáng kinh
ngạc. Làm sao lý giải được hiện tượng này?
Trong
hóa học có những phản ứng hóa học có thể "cảm nhận" được sự hiện diện
của từ trường dù rất yếu. Bộ phận có thể tương tác với từ trường là cặp
electron đơn độc (unpaired electron). Cơ chế "cặp đôi electron" đã
được nghiên cứu trên lý thuyết lẫn thực nghiệm gần bốn thập niên qua và trở nên
một lĩnh vực riêng biệt gọi là "hóa học spin". Electron có đặc tính
quay như là con cù được gọi là spin. Khi quay theo chiều kim đồng hồ, ta có spin
lên (↑); ngược
chiều kim đồng hồ,
ta có spin xuống (↓). Và
chính những spin này
tương tác với
từ trường dù
rất yếu để
tiến hành phản
ứng. Vì là
con cù, nên cặp
electron có thể quay cùng
chiều (a) (↑↑)
hay ngược chiều (b) (↑↓). Hai trạng
thái này có thể chuyển hoán bởi tác động từ trường làm thay đổi chiều quay
(Hình 12).
↑↓
|
<─>
|
↑↑
|
(a)
|
(b)
|
|
Hình
12: Hai trạng thái (a) và (b) của cặp đôi electron
chuyển hoán với nhau. |
Năm
1978, Schulten và cộng sự [31] đề nghị cơ chế cặp đôi electron có thể là một cơ
chế cảm từ cho nam châm "hóa học" của chim robin. Thoạt đầu, Shulten
gởi bản thảo bài báo cáo của nhóm đến tạp chí Science. Thẩm định viên
của tờ tạp chí quyền uy này từ chối đăng và kèm theo một lời phê có chút mùi
châm biếm, "Một nhà khoa học ít táo bạo hơn thì có lẽ đã vứt ý tưởng
này vào sọt rác" (A less bold scientist might have designated this
idea to the waste paper basket). Ông đành gởi bài đến một tạp chí khác dễ thông
cảm hơn và từ đó giả thuyết của ông càng lúc càng nhận được sự đồng thuận từ
cộng đồng nghiên cứu khoa học. Theo ông, nếu muốn tạo ra cặp đôi electron thì
phải cần năng lượng ánh sáng. Trong cơ quan của loài vật, chỉ có đôi mắt thì là
nơi ánh sáng có thể lọt vào. Vì vậy, ông lý luận võng mạc (retina, mặt sau của
mắt) của mắt chim robin có thể là nơi mà cơ chế cảm từ xảy ra và giúp chim định
hướng. Như vậy, võng mạc cần phải có phân tử tạo ra các cặp đôi electron, nhưng
ông không biết phân tử nào có thể tạo ra cặp đôi electron. Mãi đến 20 năm sau,
vào một ngày đẹp trời của năm 1998, ông nhận được một thông tin quý báu cho
rằng trong một số thực vật và động vật có một phân tử protein với tên gọi là
"cryptochrome". Phân tử này cảm quang. Ông mừng rỡ đến độ đang ngồi
mà gần té xuống đất và khẳng định phân tử này chính là nơi tạo ra chiếc nam châm
"hóa học" của chim robin. Khi ánh sáng chạm vào cryptochrome thì một
electron của nó sẽ bị đánh bật ra và di chuyển đến một phân tử khác. Như vậy,
ta có cặp đôi electron ở hai chỗ khác nhau, nhưng tác động lên nhau (Hình 13),
●●
+ ánh sáng ──> ● + ●
Hình
13: Một nối phân tử (●●) chứa 2 electron (●).
Khi ánh sáng tác động lên nối thì tạo ra cặp đôi electron
nhưng electron bị tách rời ra ở hai nơi khác nhau.
Khi ánh sáng tác động lên nối thì tạo ra cặp đôi electron
nhưng electron bị tách rời ra ở hai nơi khác nhau.
Theo
Schulten và cộng sự [32], cơ chế cảm từ của chim robin được diễn tả như sau.
Photon của ánh sáng mặt trời đi xuyên qua thủy tinh thể của mắt chạm vào võng
mạc nơi chứa vô số phân tử cryptochrome. Năng lượng photon sẽ tác dụng lên nối
phân tử tạo ra cặp electron đơn độc (Hình 13). Spin của hai electron có
hai trạng thái (a) và (b) (Hình 12). Hai trạng thái này sẽ tạo hai hợp chất
khác nhau mà chim có thể phân biệt. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao chim định
hướng? Người ta biết trục xoay của spin (biểu hiện ↑ hoặc ↓) đều hướng về tâm O
của mắt. Trong võng mạc có cả hai trạng thái (a) và (b). Nồng độ của trạng thái
(a) và (b) khác nhau tùy theo vùng trên võng mạc. Vùng có đường hướng tâm song
song với hướng từ trường (đường z1 trong Hình 14) chứa nồng
độ của trạng thái (b) nhiều nhất vì spin ở vùng này đều đồng loạt hướng theo
chiều từ trường. Khi đường hướng tâm như đường z2 tạo một
góc θ với từ trường thì ảnh hưởng của từ trường giảm làm giảm nồng độ
(b) gia tăng nồng độ (a). Như thế, ngoài việc hình thành trạng thái (a) và (b)
của spin, dạng hình cầu của mắt góp phần để thực hiện cái nam châm hóa học. Nếu
võng mạc không phải dạng cầu mà là mặt phẳng thì nồng độ của (a) và (b) nơi nào
cũng như nhau. Chim robin sẽ không có khả năng cảm ứng từ trường.
Hình
14: Nhãn cầu của chim và từ trường B. Spin của electron đều hướng vào tâm O
của nhãn cầu và tạo góc θ với hướng từ trường B. Khi góc θ = 0°
(đường z1), các electron spin ở vùng võng mạc này (tại điểm đường
z1 cắt ngang) song song với từ trường và nồng độ của trạng thái
(b) cao nhất, trạng thái (a) thấp nhất. Đường z2 tạo góc θ
với từ trường, trạng thái (b) giảm và trạng thái (a) tăng.
|
Nhóm
Shulten [32] tạo ra mô hình toán dự đoán rằng chim robin phân biệt phương hướng
bằng sự cảm nhận của một đóm đen hiện ra trong mắt (Hình 15). Nếu ta quan sát
hành động của chim khi đậu trên cành cây hay bên bờ dậu, chúng đứng đó vẻ ngơ
ngác, nhìn trời nhìn đất, liếc ngang liếc dọc. Thực sự, chúng không ngơ ngác mà
đang làm cái việc định hướng tìm cái đóm đen hiện ra trong mắt. Khi chúng bay
song song với từ trường (0° và 180°) thì đóm đen hiện ra ở giữa. Điều này cho
thấy chim robin không phân biệt được Bắc hay Nam. Khi chim bay thẳng góc với từ
trường thì đóm đen biến mất. Nếu không phân biệt được Bắc Nam thì liệu chim có
lạc lối? Các chuyên gia về cầm điểu nghĩ rằng, khi chim robin bay gần đến xích
đạo thì có một cơ chế khiến chim bay ngược lại. Cơ chế này là một bí ẩn khác
nằm ngoài phạm vi bài viết này. Nhóm Schulten đã phanh phui được vài bí ẩn của
nam châm "hóa học" của chim robin. Như vậy, cơ học lượng tử đã có vai
trò gì trong cái nam châm "hóa học" ?
Hình
15: Điểm đen định vị trong mắt chim robin thay đổi vị trí khi chim bay nhiều
hướng khác nhau (từ 0 đến 180°) đối với từ trường [32].
Electron
đơn độc là một chủng loại không bền, sẵn sàng kết hợp với một electron đơn độc
khác để có trạng thái bền. Thiết nghĩ, điều này cũng không khác sinh hoạt loài
người là bao... Vì vậy, sau khi cặp đôi electron hình thành electron thường ở
cách xa nhau để tránh sự kết hợp. Nhưng dù cách xa nhau, như cặp đôi trai gái,
họ vẫn mùi mẫn nhớ nhau, liên lạc với nhau và thậm chí có sự "thần giao
cách cảm". Người này làm gì ở đầu này, thì ở đầu kia người kia lập tức cảm
nhận được. Vượt cả thời gian lẫn không gian. Kỳ lạ thay, trong thế giới lượng
tử, "thần giao cách cảm" có thật và được gọi là "vướng víu lượng
tử" (quantum entanglement) [26]. Spin của các electron đơn độc này liên
kết với nhau qua sự kết hợp lượng tử theo cơ chế "vướng víu lượng tử".
Nghĩa là hướng quay (spin) của electron này liên kết chặt chẽ với hướng quay
của electron kia bất chấp khoảng cách giữa hai electron. Để cơ chế của nhóm
Schulten xảy ra, thì cặp đôi electron cần phải "sống" lâu qua
"vướng víu lượng tử" để duy trì trạng thái spin (a) hay (b) (Hình 16).
Trong máy tính lượng tử nhân tạo, vướng víu lượng tử là một cơ chế trung tâm.
Như đã đề cập ở trên, hiện tượng này trong máy tính chỉ có thể thực hiện trong
môi trường cô lập và nhiệt độ gần nhiệt độ zero tuyệt đối. Tuy nhiên, giống như
hiện tượng quang hợp, kết hợp và vướng víu lượng tử xảy ra trong mắt chim robin
trong môi trường sinh học bình thường và thời gian vướng víu dài hơn bất cứ mọi
thiết bị lượng tử nhân tạo được biết.
Hình
16: Vướng víu lượng tử xảy ra trong mắt chim theo các quy luật lượng tử
(Credit: Ilia Solov'yov).
Mặc
dù đã có những thành công nhất định trong việc giải mã cơ chế cảm từ của loài
chim dựa trên cặp đôi electron, người ta vẫn chưa có nhiều bằng chứng thực
nghiệm thuyết phục như trường hợp của quang hợp. Sau gần 40 năm khảo sát chim
robin, điều được khẳng định là: nam châm hóa học nằm bên trong mắt chim. Nhưng
cho đến nay cấu trúc của cryptochrome vẫn được chưa hiểu tường tận. Trạng thái
spin (a) và (b) tạo những hợp chất hóa học là yếu tố chính của chiếc nam châm
mà chim có thể cảm nhận. Nhưng bản chất của các hợp chất này vẫn chưa được khảo
sát. Ngoài ra, rất ít dữ liệu và thông tin về "mạch điện" sinh học
kết nối trạng thái spin của cặp đôi electron với tín hiệu thần kinh ở não bộ
tạo ra khả năng định hướng. Nhiều loài côn trùng như ruồi, bướm, cũng dựa vào
cryptochrome để định hướng nhưng không cần cặp đôi electron như chim. Trong khi
cơ chế cảm từ của chim và nhiều loài khác cần ánh sáng thì con rùa biển vẫn có
thể định hướng hoàn toàn trong bóng tối. Rất nhiều câu hỏi đã được đặt ra. Thậm
chí, hạt sắt từ tính ở mỏ bồ câu tưởng rằng đã tường minh nhưng vẫn là một đề
tài còn đang tranh cãi. Một nhóm nghiên cứu đã cắt thành lát hai trăm cái mỏ
của những con bồ câu xấu số để tìm kiếm hạt sắt từ tính nhưng chỉ là công dã
tràng. Kết quả là không có hạt sắt từ tính.
5.
Lời kết: "Vạn thế sư biểu"
Bài
viết hơi dài dù nội dung chỉ là vài đơn cử về những bài học bình dị của thiên
nhiên. Những thí dụ về xương, da, về quang hợp của vi khuẩn, hoa lá và chim bay
muôn ngàn chỉ là dữ kiện thông thường hiển hiện trước mắt và nghe thấy ở xung
quanh. Mỗi thí dụ trên, nếu được viết tường tận dễ dàng trở thành những quyển
sách dày. Và nếu những bí ẩn về sinh học được giải mã tất cả (nhưng có lẽ không
bao giờ) thì chúng ta sẽ có những trường thiên gần như bất tận của nhiều bộ
bách khoa từ điển. Nó cho thấy con người cho đến nay còn biết rất ít, rất thô
sơ về các cơ cấu và cơ chế cực kỳ tinh vi trong môi trường sinh học. Nhưng điều
này không có gì phải ngạc nhiên vì đó là thành quả của 4 tỷ năm lịch sử tiến
hóa của muôn loài trên quả đất nhỏ bé này.
Nếu
xem những bài giảng về "Sự sống là gì?" vào năm 1943 của nhà
vật lý lượng tử lừng danh Schrödinger và sự khám phá về cấu trúc DNA của
Rosalind Franklin, Maurice Wilkins, James Watson và Francis Crick ở đầu thập
niên 50 của thế kỷ 20 là điểm khởi đầu, thì sinh học phân tử và sinh học vật lý
đã được triển khai gần 3/4 thế kỷ. Sự xuất hiện của công nghệ nano vào thập
niên 90 đã đẩy mạnh các công trình nghiên cứu sinh học theo phương pháp
"từ dưới lên", một phương pháp thuận theo "ý trời", vì nó
cũng là thủ thuật tạo ra vạn vật của Mẹ Thiên nhiên từ thuở khai thiên lập địa.
Đối tượng của nghiên cứu sinh học là những phân tử "sống" có cấu trúc
cực kỳ phức tạp. Nếu ta so sánh những phân tử như nước (H2O) hay khí
methane (CH4) với các phân tử sinh học như protein các loại thì cũng
như viên gạch so với tòa lâu đài vô cùng kỳ vĩ. Chính sự phức tạp này là những
thử thách to lớn trong nghiên cứu sinh học và cũng là rào chắn không cho ta
thấy hiện tượng với cái nhìn quy nạp và toàn diện.
Nhưng
dù phức tạp, Mẹ Thiên nhiên không quá khó tính. Bí ẩn của Mẹ Thiên nhiên như
những dòng nhạc giao hưởng từ xa, lúc rõ lúc nhoè. Trí tuệ và sự tò mò của con
người được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác thắp lên những tia sáng nhỏ
rắp tâm tìm kiếm những dòng nhạc bí ẩn đó. Những đốm sáng nhỏ ấy cho chúng ta
một hình ảnh dù không hoàn chỉnh nhưng từ đó ta có thể suy diễn xa hơn dựa trên
những quy luật vật lý mà Mẹ Thiên nhiên cũng đã tận dụng. Cấu trúc của xương
hay vỏ bào ngư là một thí dụ. Nó cho thấy sự sắp xếp có "tôn ti" từ
dưới lên trên là một điều tối cần cho mọi hệ thống và vật liệu sinh học mà chức
năng của chúng được thiết kế và duy trì từ thang phân tử đến mức vĩ mô. Thiết
kế này nhất quán từ vi mô đến vĩ mô, không thừa không thiếu, và tập trung vào
chức năng được định sẵn ngay từ khi còn trong trứng nước. Tôn ti này đã biến
hợp chất calcium carbonate (CaCO3) vốn là những hạt phấn bời rời trở
thành một giàn giáo bền cứng cho muôn loài động vật có xương và giáp xác. Con
người nhanh tay chộp lấy một vài quy luật thiết kế mà Mẹ Thiên nhiên đã hé lộ
để mô phỏng và chế tạo ra nanocomposite bền chắc có tiềm năng làm áo giáp hay
vật liệu chống công phá. Có lẽ, đây sẽ là lĩnh vực sẽ cho nhiều thành quả trong
tương lai mà trong đó con người vừa mô phỏng những quy luật thiên nhiên vừa
khắc phục được cái mong manh vốn có của hệ thống sinh học.
Sự
tiến hóa không dừng ở vật bền cứng mà còn tác động sâu sắc đến vật mềm mại. Da
của cá heo, cá mập hay vảy của các loài cá nhỏ cũng đã trải qua một quá trình
tiến hóa vài trăm triệu năm theo những quy luật của thủy động lực học. Những
con cá nhỏ tiết ra chất nhờn làm trơn da khi bơi, da cá heo biết chiều theo áp
suất của dòng nước và da cá mập được phủ lên lớp vảy nhỏ micromét. Tất cả để
làm giảm lực cản của nước. Cấu trúc vảy của từng loại cá được thiết kế khác
nhau để thích ứng với môi trường sống và tốc độ bơi của cá. Vảy con cá lòng
tong không cần thiết phải giống vảy cá mập. Cá mập khi di động không cần tiết
ra nhiều chất nhờn như những con cá nhỏ. Con người vô hình trung lặp lại hay mô
phỏng những điều đã biết trong thế giới loài cá để giảm lực cản cho máy bay,
tàu thuyền và các ống dẫn dầu nhưng vẫn chưa đạt được hiệu ứng tối ưu.
Càng
đi sâu vào thế giới cực nhỏ, hiệu ứng lượng tử xuất hiện. Điều này rất đúng với
những vi hạt "vô cảm vô tri", và cũng đúng với các phân tử "hữu
tình" của sinh học. Rõ ràng, "Sinh học lượng tử" sẽ là một bộ
môn khoa học của thế kỷ 21 nhiều hấp dẫn và đầy những thách thức từ thiên
nhiên. Dù có những thành quả nhất định trong nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học
vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa của "Sinh học lượng tử", loay hoay tìm kiếm
chiếc chìa khóa vàng để mở cửa đi vào tòa lâu đài kỳ bí mà Mẹ Thiên nhiên đã
cất dấu rất kỹ. Cái kỳ bí đầy ma lực này khiến cho con người vừa ngưỡng mộ sự
thông thái của thiên nhiên vừa phấn kích nhập cuộc vào cái trò chơi đi tìm động
hoa vàng đầy huyễn hoặc. Nhưng cuối cùng ta phải tự hỏi là : Hiệu ứng
lượng tử sẽ có tầm thống trị sâu xa đến mức độ nào trong các hệ thống sinh
học ? Và trong 4 tỷ năm qua, để thúc đẩy sự tiến hóa của muôn loài, có thật
sự Mẹ Thiên nhiên là một "tay chơi" khoa học thượng thặng đã thông
hiểu và thao túng quy luật lượng tử hơn cả những nhà khoa học tài ba của nhân
loại còn đang chập chững học hỏi ? Trong thí dụ về hiện tượng quang hợp và
nam châm định hướng của loài chim, câu trả lời đã nghiêng về phía khẳng định.
Việc
khám phá ra hiệu ứng lượng tử trong quang hợp và khả năng định hướng của loài
chim lập tức thu hút sự chú ý của cộng đồng nghiên cứu vi tính lượng tử và năng
lượng mặt trời. Dù đây chỉ là những cơ chế sơ khởi của các loài sinh thực vật
sơ đẳng, hiện tượng xảy ra trong các tế bào của cây cỏ, vi khuẩn, cầm điểu đã
cho thấy hiệu ứng lượng tử xuất hiện và tồn tại rất bền bỉ, vững mạnh (robust)
trong một môi trường mở, nóng, ướt và vô cùng ồn ào. Khám phá này khiến các nhà
vật lý lượng tử sửng sốt vì nó đi ngược lại những tri thức kinh điển và rất
khác với hiệu ứng lượng tử cực kỳ mỏng manh, ngắn ngủi trong các thiết bị lượng
tử nhân tạo dù được cô lập tối đa. Đây là một bài học rất lớn mà Mẹ Thiên nhiên
ban bố cho loài người. Nếu những bí ẩn lượng tử trong sinh học được giải mã, dù
chỉ một phần nhỏ, thì cũng đủ để các chuyên gia chế tạo máy tính lượng tử gia
dụng và gia tăng năng suất chuyển hoán cho pin mặt trời.
Suy
diễn lên một thứ bậc cao hơn, hiệu ứng lượng tử có ảnh hưởng gì trong các loài
động vật thượng đẳng như con người trong việc hình thành ý thức, thói quen,
phản xạ v.v... ? Hãy nhìn một người đàn dương cầm với những ngón tay bay
trên bàn phím như làn gió, mắt chăm chú nhìn vào những nốt nhạc được biến thành
tín hiệu tức thì đưa lên bộ não, rồi qua các cơ chế phức tạp bộ não truyền mệnh
lệnh xuống các ngón tay tạo nên những giai điệu trầm bổng. Có phải đây là một
hiệu ứng lượng tử bao gồm việc sao chép, chuyển hoán, giải mã, truyền tải thông
tin, tất cả được thực hiện trong cái tích tắc ?
Lý
luận xa hơn, trong lịch sử 4 tỷ năm tiến hóa, phải chăng hiện tượng lượng tử đã
ảnh hưởng sâu sắc đến sự chọn lọc tự nhiên của Darwin, tạo ra muôn loài ?
Giáo sư Seth Lloyd có câu trả lời khẳng định [22]. Trong cuộc hành trình tiến
hóa chông gai đó, nếu ý thức (consciousness) con người cũng được hình thành và
vận hành theo các quy luật lượng tử, thì đây quả là một điều kỳ thú. Thuyết
lượng tử là căn bản của việc hình thành ý thức, và ý thức trưởng thành trong quá
trình tiến hóa. Khi ý thức con người tiến đến một mức độ có khả năng tự vấn sự
hiện hữu và giải thích được chức năng của lượng tử, trả lời câu hỏi, "Ta
đến từ đâu ?", thì có thể nói vạn vật đã đi được một vòng viên
mãn.
Mẹ
Thiên nhiên hay là sự tiến hóa là "vạn thế sư biểu" của muôn loài,
vừa tạo ra các quy luật khoa học vừa ứng dụng chúng trong những tình huống khắt
khe nhất để duy trì sự sống luôn được cải biến và cái vô thường trong vũ trụ.
Trương
Văn Tân
Tháng
10, 2014
Tài
liệu tham khảo và ghi chú
1.
D.
Taylor, "Why are your bones not made of steel?", Materials Today,
13 (March 2010) 6.
2.
J.
E. Gordon, "Structures, or why things don't fall down", 1978, Penguin
Books, London.
3.
M.
E. launey, M. J. Buehler and R. O. Ritchie, Annu. Rev. Mater.Res., 40
(2010) 25.
4.
H.-B.Yao,
J. Ge, L.-B. Mao, Y.-X. Tan and S.-H. Yu, Adv. Mater., 26 (2014) 163.
5.
A.
R. Studart, Adv. Mater., 24 (2012) 5024.
6.
F.D.
Fleischli, M. Dietiker, C. Borgia and R. Spolenak, Acta Biomater., 4
(2008) 1694.
7.
L.
J. Bonderer, A. R. Studart and L J Gauckler, Science, 319 (2008) 1069.
8.
V.-T.
Truong, Defence Science and Technology Organisation, DSTO-GD-0290
(2001).
9.
V.
S. L’vov, A. Pomyalov, I. Procaccia, and V. Tiberkevich, Phys. Rev. Lett.,
94 (2005)
10.
A.
A. Fontaine, S. Deutsch, T. A. Brungart, H. L. Petrie and M. Fenstermacker, Exp.
Fluids, 26 (1999) 397.
11.
Y.
Kodama et al, "Drag reduction of ships by microbubbles" (Google
search).
12.
T.
Takahashi et al, (a) "Experimental skin friction reduction by microbubbles
using a ship with a flat bottom", 31st Symposium on Turbulence Flow
(1999).(b) "A brief report on microbubble experiments using 50 m-long flat
plate ship", 74th General Meeting of SRI (2000) (Google search).
13.
M.
O. Kramer, J. Aero. Sci., 24 (1957) 459.
14.
M.
O. Kramer, J. Amer Soc. Naval Engrs., 72 (1960) 25.
15.
P.
W. Carpenter and A. D. Garrard, J. Fluid. Mech., 155 (1985) 465.
16.
K.
S. Choi, X.Yang, B. R.Clayton, E. J.Glover, M. Altar, B. N. Semenov and Kulik
V. M., Proc. R. Soc. A, 453 (1997) 2229.
17.
K.
Krieger, Science, 305 (2004) 636.
18.
S.
J. Lee and S. H. Lee, Exp. Fluids, 228 (2001) 87.
19.
D.
W.Bechert, M. Bruse, W.Hage, J. G. T.van der Hoeven and G. Hoppe, J. Fluid
Mech., 338 (1997) 59.
20.
B.
Dean and B. Bhushan, Phil. Trans. R. Soc. A, 368 (2010) 4775.
21.
D.
W. Berchert, M. Bruse, W. Hage and R. Meyer, Naturwissenschaften, 87
(2000) 157.
22.
S.
Lloyd, Nature Phys., 5 (2009) 164.
23.
G.
S. Engel, T. R. Calhoun, E. L. Read, T. K. Ahn, T. Mancal, Y.-C. Cheng, R. E.
Blankenship and G. R. Flemming, Nature, 446 (2007) 782.
24.
H.
Lee, Y.-C. Cheng and G. R. Fleming, Science, 316 (2007) 1462.
25.
Để
tránh nhầm lẫn, 99% nói về hiệu suất chuyển tải năng lượng mặt trời khi ánh
sáng mặt trời đã được hấp thụ và đi vào trong hệ thống sinh học đến trung tâm
phản ứng của hệ thống đó và được sử dụng cho phản ứng quang hợp. Ở đây, người
viết nói về hiệu suất chuyển tải năng lượng không phải hiệu suất chuyển hoán.
Trong thực vật hiệu suất chuyển hoán từ năng lượng mặt trời thành hóa năng là
5% (X.-G. Zhu, S. P. Long and D. R. Ort, Current Opinion in Biotechnology,
19 (2008) 153). Sự thất thoát xảy ra phần lớn do sự không hấp thụ bức xạ của lá
cây ngoài vùng ánh sáng thấy được và phản xạ, truyền xạ làm giảm lượng hấp thụ
tia sáng mặt trời.
26.
Kết
hợp lượng tử là một hiện tượng "kỳ quặc" trong cơ học lượng tử và
cũng là một đặc tính phi định xứ (delocalization) của vi hạt. Các vi hạt có thể
tương trợ, tương tác lẫn nhau, liên thông hay vướng víu (entanglement) với nhau
một cách nhịp nhàng và tức thời trên một khoảng cách địa lý xa tùy ý mà không
có sự chuyển giao năng lượng. Kết hợp lượng tử là một cơ chế tương tác xa, tức
thời mà Einstein đã đặt cho cái tên "tác động ma quái tầm xa" (spooky
action at a distance).
27.
G.
Panitchayangkoon et al, PNAS, 107 (2010) 12766.
28.
G.
Panitchayangkoon et al, PNAS, 108 (2011) 20908.
29.
E.
Collini et al, Nature, 463 (2010) 644.
30.
N.
Lambert, Y.-N. Chen, Y.-C. Cheng, C.-M. Li, G.-Y. Chen and F. Nori, Nature
Phys., 9 (2013) 10.
31.
K.
Schulten, C. E. Swenberg and A Weller, Z. Phys. Chem., 111 (1978) 1.
32.
T.
Ritz, S. Adem and K. Schulten, Biophys. J., 78 (2000) 707.
Phụ
lục
a.
Độ dài tới hạn Griffith của vết nứt
Khi
một vật thể chịu một ứng suất, σ , thì sẽ có độ căng, ε. Năng
lượng tồn trữ, Uo, trong một đơn vị thể tích của vật thể
(Hình P1a) này là,
Uo
= ½ σ ε
(P1)
Vì
σ = Eε, nên phương trình (P1) trở thành,
Uo
= σ2 ∕ 2E
(P2)
E là mô-đun Young.
Hình
P1: (a) Vật thể chịu một lực kéo
(ứng suất σ) lúc chưa có vết nứt.
(b) Cùng lực kéo, có vết nứt chiều dài a.
(ứng suất σ) lúc chưa có vết nứt.
(b) Cùng lực kéo, có vết nứt chiều dài a.
Khi
vật thể này có vết nứt a thì một phần của năng lượng tồn trữ được phóng
thích để tạo vết nứt. Để tính toán phần năng lượng phóng thích này, ta hãy xem
hai tam giác ở bên trên và bên dưới vết nứt có chiều rộng a (đường nứt)
và chiều cao h (Hình P1b). Vì vết nứt cho nên vùng của hai tam giác này
không còn chịu lực. Nói cách khác, năng lượng tồn trữ của vùng này, U,
đã được phóng thích để tạo ra vết nứt.
U
= – (σ2 ∕ 2E).ha
(P3)
Theo
phương pháp tính của Inglis thì h = πa, cho nên,
U
= – (σ2 ∕ 2E).πa2
(P4)
Dấu
âm chỉ năng lượng phóng thích. Ngoài ra, vật thể hấp thụ năng lượng để bẻ gãy
các nối hóa học trong vật thể để tạo ra 2 mặt nứt. Năng lượng tạo ra 2 mặt nứt S
là
S
= 2γa
(P5)
γ là năng lượng
bề mặt của vật thể, con số 2 chỉ 2 bề mặt được tạo ra. Cho nên, toàn thể năng
lượng, Y, liên quan đến việc tạo ra vết nứt là
Y
= S + U
(P6)
Y
= 2γa – (σ2 ∕ 2E).πa2 (P7)
S,
U
và Y được thể hiện trong Hình P2 như sau,
Hình
P2: Sự liên hệ giữa S, U và Y.
Độ dài ac là điểm cực đại của Y.
Độ dài ac là điểm cực đại của Y.
Y
là phương trình bậc 2 của biến số a mà độ dài vết nứt tới hạn ac
ở điểm cực đại của Y.
Như
thế, để tìm ac đạo hàm Y' = 0
2γ
– (σ2 ∕ E).πac = 0
(P8)
Ta
có,
ac = (2Eγ) ∕ (πσ2)
(P9)
Từ
phương trình P9, ta thấy ac tỷ lệ nghịch với bình phương của
ứng suất σ. Nếu σ là độ bền (ứng suất tại điểm gãy đứt) thì ta sẽ tính được ac
của vật liệu cho các thiết kế từ việc xây cầu đến đúc con ốc.
Ta
có thể viết phương trình P9 ở dạng,
ac = γ ∕ (πU0)
(P10)
Từ
phương trình P10, ta có thể kết luận,
"ac
~ Năng lượng bề mặt tạo ra vết nứt ∕ Năng lượng tích trữ do sức căng".
b.
Bài toán về độ dài tới hạn của vết nứt thủy tinh
Một
tấm thủy tinh có kích thước d (chiều dài) x 200 mm (chiều ngang) x 2mm
(bề dày). Tính độ dài tới hạn của vết nứt, ac, song song với
chiều ngang trong trường hợp ta áp đặt một sức nặng 500 kg theo chiều dài tấm
thủy tinh (Hình P1), biết rằng mô-đun Young, E = 60 GPa và năng lượng bề
mặt, γ = 0,5 J ∕ m2.
Lời
giải:
Ứng
suất, σ = lực ∕ tiết diện = 500 x 9,8 ∕ 200 x 2 x 10-6 = 12,3 MPa.
Theo
phương trình P9, ta có,
ac = (2 x 60 x 109
x 0,5) ∕ (3,1416 x (12,3)2 x 1012) = 0,126 mm
Kết
quả này cho thấy nếu tì vết có sẵn trong tấm thủy tinh dài hơn 0,126 mm thì
dưới sức nặng 500 kg, tấm kính sẽ vỡ ngay. Ngoài ra, ac không
tùy thuộc vào chiều dài của tấm thủy tinh.
No comments:
Post a Comment