“Quyền Không Sợ”
Thiện Giao, phóng viên RFA
2009-07-01
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/no-fairness-without-separation-of-powers-TGiao-07012009160050.html
Hiệu năng của cơ quan điều tra Việt Nam có những mâu thuẫn trầm trọng đến không thể lý giải.
Họ có thể phá một vụ án chính trị chỉ trong vài ngày, bắt người ta nhận tội cũng chỉ trong vài ngày, ở những tội rất nặng, như chống phá nhà nước, lật đổ chế độ, vân vân.
Nhưng, cũng chính những cơ quan này, phải tốn đến hàng tháng, thậm chí hàng năm trời, để điều tra mà không bao giờ có được kết luận trong các vụ án khác, trong một lãnh vực khác: tham nhũng.
Sự tồn vong của chế độ
Tham nhũng thì không chỉ là nguy cơ “bình thường” đối với chế độ. Tham nhũng, thậm chí “đe dọa sự tồn vong của chế độ.” Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nói rõ điều này trong một văn bản được ký ban hành ngày 12 tháng Năm vừa qua.
Tệ tham nhũng, hối lộ đang “đe dọa sự tồn vong của chế độ” không chỉ lan tràn trong nước, ảnh hưởng lên đời sống xã hội và người dân trong nước, mà lan sang cả các doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn tại Việt Nam hoặc với Việt Nam.
Một luật sư nước ngoài, là ông Nguyễn Vân Nam, hiện đang làm việc tại Sài Gòn, nói rằng hối lộ, cùng nhiều hành vi phản đạo lý khác, không thể điều chỉnh được theo luật cạnh tranh hiện hành của Việt Nam:
“Hối lộ, mua chuộc chỉ là một phần của luật chống cạnh tranh không lành mạnh điều chỉnh. Tôi muốn nhấn mạnh, rằng luật cạnh tranh của Việt Nam không điều chỉnh được những hành vi như vậy. Nước nào cũng có, nhưng riêng Việt Nam thì không có.”
Hơn 60% doanh nghiệp tại Việt Nam bị đòi hối lộ. Đó là con số được công bố tại một hội thảo quốc tế tại Sài Gòn hôm 26 tháng Sáu vừa qua.
Thông tin này được đưa ra trong khi dư luận vẫn còn bàn tán xung quanh 2 sự kiện bị cáo buộc có liên quan đến tham nhũng, là vụ PCI của Nhật Bản và Securency của Australia.
Vụ PCI thì phía Nhật Bản nói rõ, là người Nhật hối lộ quan chức Việt Nam. Trong khi phía Việt Nam thì khẳng định quan chức này chỉ “lợi dụng chức vụ, quyền hạn…”
Vụ Securency thì Cảnh Sát Liên Bang Úc quyết định “điều tra toàn diện” các cáo buộc hối lộ. Phía Việt Nam thì… yên lặng.
Mà đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam yên lặng.
Tác giả bài viết “An Ninh Chống Tham Nhũng” viết trên blog Osin của anh, liệt kê ra nhiều trường hợp “yên lặng” khác. Ông viết:
“Huỳnh Ngọc Sỹ là quan chức đầu tiên bị bắt giam và PCI là vụ án đầu tiên được khởi tố kể từ khi có những dấu hiệu tham nhũng liên quan tới các quan chức Việt Nam được cảnh sát nước ngoài phát hiện. Năm 2006, cảnh sát Đức tìm ra dấu hiệu Siemens chuyển hơn 5 tỷ đồng vào một tài khoản ở Singapore của một người được nói là “quan chức Việt Nam”.
Năm 2008, 3 Việt Kiều ở Mỹ bị truy tố vì “hối lộ 150 nghìn đô la để bán được các thiết bị cho một dự án ở Vũng Tàu”. Từ đó đến nay, không hề có bất cứ thông tin nào từ cơ quan điều tra Việt Nam về hai vụ án có dấu hiệu liên quan đến tham nhũng ấy.”
Chống tham nhũng?
Có phải vì cơ quan điều tra của Việt Nam thiếu hiệu quả? Không hẳn! Blogger Osin minh chứng điều này trong bài viết của mình, rằng:
“Vụ “luật sư Lê Công Định” cho thấy, cơ quan an ninh Việt Nam có đủ năng lực để phát hiện từ trong trứng nước các hành vi được coi là “vi phạm luật pháp Việt Nam”; những hành vi không chỉ xảy ra ở trong nước mà ở bất cứ chỗ nào bên ngoài biên giới.”
Nếu năng lực của lực lượng an ninh là như vậy, tác giả viết tiếp, thì họ nên “được huy động sức mạnh cho cả mục tiêu chống tham nhũng, trong những lĩnh vực mà cảnh sát không đặt chân tới được. Khi có những thương vụ lớn, sử dụng nguồn ngân sách quốc gia, lực lượng an ninh hoàn toàn có thể nhắm sự “quan tâm đặc biệt” vào các nhân vật có liên quan: các mối liên hệ; những tài khoản cá nhân; những căn nhà họ mua ở nước ngoài; ai trả cho những chuyến du lịch, trước, trong và sau khi hợp đồng được ký…”
Cho đến nay, dù tham nhũng được nhắc đi nhắc lại là những nguy cơ “đe dọa sự tồn vong của chế độ,” thì người ta vẫn chưa thấy những quốc sách đủ mạnh để đẩy lùi nguy cơ này.
Chính sách kê khai tài sản cán bộ đến nay vẫn chưa hoàn tất. Các cam kết chống tham nhũng của Việt Nam với quốc tế vẫn thực hiện nửa vời, theo kiểu “hành pháp chấp nhận nhưng lập pháp chưa thông qua.”
Hai công ước chống tham nhũng mang tính quốc tế, là Công Ước Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam tham gia năm 2003, và Công Ước OECD do Tổ chức Hợp tác Phát Triển Kinh Tế Châu Á – Thái Bình Dương và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á khởi xướng, Việt Nam tham gia năm 2004, đến nay vẫn chưa thể có hiệu lực thi hành.
Sử gia, đại biểu Quốc Hội, Dương Trung Quốc, đã từng đề cập đến điều này trước đây, rằng “công ước quốc tế cần phải được Quốc Hội thông qua mới có hiệu lực thi hành.”
“Tôi cho rằng, về nguyên tắc, một công ước mà chưa thông qua Quốc Hội thì chưa có hiệu lực thi hành. Mọi cam kết quốc tế đều phải có Quốc Hội phê chuẩn mới có hiệu lực. Chẳng hạn, việc vào WTO, ký cuối năm trước nhưng sau đó Quốc Hội thông qua.”
Xét cho cùng, mọi cam kết đều có thể bị phá vỡ khi cần, và mọi hình thức kê khai tài sản cán bộ đều có thể không được thực hiện rốt ráo, nếu muốn. Các phương pháp có tính “kỹ thuật” không cán đáng nổi sứ mệnh đẩy lùi nguy cơ tham nhũng, cho dầu là nguy cơ “đe dọa sự tồn vong của chế độ.”
Nhập nhằng…
Trong một bài viết khác, được thực hiện cách đây 80 năm, một tác giả Việt Nam cũng đặt ra nguy cơ tham nhũng và cách thức bài trừ nguy cơ ấy. Tám mươi năm mà vẫn còn nguyên tính thời sự cho tình hình Việt Nam hiện nay.
Nhà báo Phan Khôi, cách đây 80 năm, đã khẳng định: chỉ có dân quyền mới trị được tham nhũng.
Cụ Phan Khôi viết, rằng nhà nước có trừng trị quan tham thì sự trừng trị ấy chỉ bớt được cái tệ hối lộ đi một ít thôi, chứ không trừ hẳn đi được, vì “hễ dân còn sợ quan quá thì cái tệ hối lộ cứ còn hoài.”
Cụ khẳng định:
“Dân còn sợ uy quyền thế lực của quan lại, thì trong quan lại, kẻ nào bất lương, cứ ỷ vào chỗ đó mà ép dân, cho nên cái tệ hối lộ không bao giờ trừ được. Nhưng vì cớ gì mà dân sợ quá như vậy? Là vì... dân không có một chút gì trong tay để làm hộ phù, nghĩa là dân không có quyền.
Thế thì bây giờ muốn cho dân đủ cậy ở cái lẽ phải của mình mà không đem tiền đút cho quan nữa, còn gì hơn cho dân có cái hộ phù ấy...? Phải vậy, dân phải có quyền thì mới chừa được cái thói sợ phi lý như những lúc trước.”
Điều mà cụ Phan Khôi nhấn mạnh, là các quan nắm hết các quyền, từ quyền xử kiện cho đến quyền bắt giam, quyền làm án. “Sự hối lộ sinh ra vì đó, vì quyền quan thì rộng mà dân không chút quyền gì để bảo hộ lấy mình.”
Vậy thì, muốn trị tham nhũng, người dân phải không còn biết sợ. Mà để không biết sợ, người dân phải có quyền, tức dân quyền. Mà dân quyền, cụ Phan Khôi nói rõ cách đây 80 năm, phải là quyền do Hiến Pháp ban cho. Vẫn chưa đủ, cụ nhấn mạnh, quyền Hiến Pháp ban cho ấy “lại nhờ pháp luật bảo hộ.”
Nghĩa là gì? “Cần nhất là sự phân quyền… bên chánh với bên hình chia rẽ hẳn ra, bấy giờ một ông quan không có thể vừa bắt người lại vừa xử phạt được; như vậy, ông quan ấy không còn lấy cái gì để dọa dân mà lấy tiền. ”
80 năm sau, bên “chánh” và bên “hình” vẫn còn là một khối, chưa tách ra. Nói gì đến “tách hẳn ra!”
80 năm sau, luật sư biện hộ trước tòa có thể bị bên “chánh” bắt, rồi giam, rồi làm án, vì tội chống nhà nước.
80 năm sau, vẫn có những công dân bị bên “chánh” bắt, rồi giam, rồi làm án “trốn thuế” vì công dân này biểu tình bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
80 năm sau, bên “chánh,” mà đại diện là ông Thủ Tướng, vẫn còn kèm rất sát bên “hình” với lời dặn dò:
“Việc tự quản phải kết hợp với quản lý nhà nước, tăng cường kiểm tra giám sát các hoạt động của các đoàn luật sư ở địa phương và hoạt động của các luật sư để kịp thời uốn nắn…”
Dường như, bên “chánh” với bên “hình” ngày càng nhập làm một!
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
No comments:
Post a Comment