Monday, July 6, 2009

NGUYỄN HỘ - MỘT NHÂN CÁCH LỚN



Vĩnh biệt một nhân cách lớn
Huệ Đăng
Gửi tới BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 11:14 GMT - thứ hai, 6 tháng 7, 2009
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/07/090706_huedang_nguyenho.shtml
Tại hội nghị Hiệp thương Thống nhất Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Nguyễn Hộ - với tư cách là một trong những người lãnh đạo phái đoàn miền Nam Việt Nam - đã đề nghị cho miền Nam tiếp tục phát triển kinh tế theo con đường "tư bản chủ nghĩa" làm động lực thúc đẩy cả nước.
Trong thời kỳ Sài Gòn nói riêng, cả nước nói chung, lâm vào tình trạng đói kém không đủ gạo ăn do chính sách ngăn sông cấm chợ, ông cũng là người thường xuyên trao đổi với các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt tìm cách khôn khéo đưa TPHCM lách khỏi chính sách này.
Ông là người ủng hộ mạnh mẽ ông Võ Văn Kiệt từng bước phá rào xóa bỏ hoàn toàn một chính sách trái qui luật tự nhiên, đi ngược lòng dân như vậy.
Ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, ông Nguyễn Hộ đã luôn băn khoăn về con đường đất nước đang đi.
Dường như ông ngộ ra điều gì đó thật quan trọng sau chuyến thăm Nhật Bản cùng ông Nguyễn Văn Linh. Ông từng nói, trước đó, ông không thể tưởng tượng được giai cấp công nhân lại được bảo vệ và chăm sóc chu đáo đến thế tại một đất nước "tư bản" sừng sỏ như vậy.
Tại Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, ông chính là người cầm đầu nhóm bốn người mạnh mẽ đặt vấn đề cải tổ và yêu cầu Lê Đức Thọ rút lui.
Ngay tại đại hội này, ông cũng chính thức lên tiếng đề nghị và ủng hộ ông Võ Văn Kiệt giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). Có thể nói, không có tiếng nói mạnh mẽ của ông, đảng Cộng sản cũng chưa nhận thấy sự cần thiết của cải tổ và mở cửa.
Những năm sau đó, ông thử nhiều cách ôn hòa để thay đổi - một cách cơ bản - quan điểm chính thống của đảng. Nhưng kết quả không như ông trông đợi.
Cùng bạn bè đồng chí hướng, ông xuất bản báo 'Truyền thống kháng chiến'. Tác động của tờ báo tăng theo cấp số nhân khiến chính quyền áp dụng các biện pháp cứng rắn nhất. Các cộng sự của ông bị bắt. Ông quyết định rời khỏi Sài Gòn lên rừng lập căn cứ kháng chiến và bị bắt tại đây.

Nhân vật thứ nhì
Đối với công nhân và đảng viên cộng sản miền Nam, người được họ kính trọng nhất là Tôn Đức Thắng; người thứ hai là Nguyễn Hộ.
Ông có ảnh hưởng rất lớn với giai cấp công nhân miền Nam, không chỉ vì là người lãnh đạo liên đoàn lao động TPHCM, mà còn vì ông không hề quan cách, rất gần gũi với họ. Ông dành phần lớn thời gian xuống cơ sở, nhà máy để nói chuyện với công nhân.
Ông là bậc đàn anh, là người thầy từng dìu dắt rất nhiều cán bộ lãnh đạo đảng cộng sản đến với chủ nghĩa cộng sản, trong đó có ông Võ Văn Kiệt. Đối với gia đình Võ Văn Kiệt, ông còn là người có ơn lớn vì đã tìm và mang về cho ông Kiệt đứa con trai bị thất lạc từ bé.
Nhiều cán bộ đảng trưởng thành từ TPHCM ít nhiều đều có kỷ niệm với ông Nguyễn Hộ. Ông chính là người thầy đầu tiên dạy ông Võ Văn Kiệt chơi tennis, khuyến khích nhiều cán bộ lãnh đạo khác chơi phong lan…

Ông Nguyễn Hộ và Nguyễn Tiến Trung, người thuộc lớp đấu tranh dân chủ trẻ
http://www.bbc.co.uk/worldservice/assets/images/2009/07/06/090706100134_nguyenhonguyentientrung226.gif

Không bị mất chức, không phải về hưu, không có bất mãn của một công thần bị đối xử tệ, con đường đi đến quyết định tuyên bố ra khỏi đảng của ông Nguyễn Hộ- một trong hai lãnh tụ công nhân miền Nam- là con đường của sự thức tỉnh lương tâm, của sự giác ngộ tri thức.
Không giống những kẻ đột nhiên "thức tỉnh" sau khi về hưu những mong được lịch sử vẫn còn nhắc đến - bằng cách phê phán chính cái mà họ làm khi đương chức, đương quyền, làm như thể họ chẳng dính líu gì đến nó - ông Nguyễn Hộ khảng khái thừa nhận: Chủ nghĩa Cộng sản là một lựa chọn sai lầm; và ông dũng cảm, quyết tâm sửa cái sai ấy.
Cho đến những ngày cuối cùng, ông Nguyễn Hộ vẫn động viên lớp trẻ dấn thân vì đất nước.
Biết rõ uy tín và ảnh hưởng rất lớn của ông Nguyễn Hộ, chính quyền đã xử lý "vấn đề Nguyễn Hộ" rất thành công. Sau khi bị bắt giam, ông bị quản thúc tại gia cho đến lúc qua đời hôm 1/07 vừa qua. Bên kia đường, đối diện ngay trước cổng nhà ông là một lô cốt cho khoảng một tiểu đội công an an ninh túc trực theo dõi. Bất cứ ai ra vô nhà ông đều được ghi nhận và điều tra lai lịch. Tên tuổi Nguyễn Hộ ngày càng được ít ai biết tới…
Đối với tôi, ông Nguyễn Hộ là nhân chứng sống cho tôi tin vào bản năng hướng thiện mạnh mẽ, vào năng lực tự giác ngộ của con người dù họ có sống trong hoàn cảnh nghịch lý đến đâu đi chăng nữa, cho tôi tin vào sự chiến thắng đương nhiên của cái thiện, cái đẹp.
Xin kính cẩn cúi đầu trước ông, một người con của đất Nam Bộ hào sảng, một trí thức dấn thân, một nhân cách lớn. Xin ông hãy an lòng ra đi.
Sài Gòn 04.07.2009

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một trí thức quan tâm đến thời cuộc tại Việt Nam. Quý vị có thể đọc thêm tư liệu về chuyện ông Nguyễn Hộ từ bỏ đảng CSVN và bị bắt ra sao trong bài "Một thời lịch sử với Nguyễn Hộ" ở đường dẫn bên tay phải.


Một thời lịch sử với Nguyễn Hộ
Cập nhật: 11:40 GMT - thứ hai, 6 tháng 7, 2009
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/07/090706_nguyenho_blog.shtml
Chia rẽ về tư tưởng trrong hàng ngũ những người cộng sản sau 1975 đã đưa đến sự ly khai hơn 10 năm sau đó của ông Nguyễn Hộ, một nhà cách mạng kỳ cựu của miền Nam Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở chỗ đó, trước điều ông coi là sự thoái hóa của Đảng thời hậu chiến, ông Nguyễn Hộ, nguyên Chủ tịch mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, đã kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và bị bắt, bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.

BBC xin giới thiệu đoạn trích sau từ một blog viết hồi tháng Tư 2008 ghi lại lời kể của chính ông về giai đoạn từ bỏ con đường của đảng cầm quyền ở Việt Nam:

Giữa năm 1987, tôi được cơ quan cho nghỉ hưu lúc tôi 71 tuổi. Liền sau đó Câu lạc bộ kháng chiến thành phố ra đời. Tôi tham gia hoạt động với tư cách Chủ nhiệm câu lạc bộ. Kể ra, ngay từ đầu, anh em kháng chiến thiết tha xin lập hội những người kháng chiến thì bị thành ủy và UBND thành phố từ chối và chỉ cho phép thành lập Câu lạc bộ những người kháng chiến mà thôi, mặc dù điều 67 của hiến pháp còn ghi rành rành các quyền tự do của công dân: tự do hội họp, tự do lập hội....Tất nhiên, tổ chức hội và tổ chức Câu lạc bộ có thực sự khác nhau về nội dung, quyền hạn và phạm vi hoạt động. Tuy vậy, dựa vào nội dung quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố về nhiệm vụ, quyền hạn của Câu lạc bộ kháng chiến:
Tập họp những người kháng chiến trong hai thời kỳ (chống Pháp và chống Mỹ) nhằm phát huy truyền thống yêu nước trong nhân dân ta.
Ðóng góp vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN.
Ðoàn kết tương trợ giúp đở lẫn nhau trong cuộc sống.

Những người tham gia Câu lạc bộ kháng chiến đã tiến hành hoạt động bằng các hình thức: hội thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, ra báo nhằm các mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau vì đặc quyền, đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ đảng và nhà nước, ngoài ra xây dựng tổ chức, phát triển hội viên, thực hiện đoàn kết tương trợ, thăm hỏi chăm sóc gia đình kháng chiến, thương binh liệt sĩ.

Với tinh thần đấu tranh chống trì trệ, tiêu cực nói trên, Câu lạc bộ kháng chiến thành phố đã kiến nghị:
Bộ chính trị và Ban bí thư trung ương đảng cần có sự kiểm điểm định kỳ, phê tự phê về sự lãnh đạo của mình trước ban chấp hành trung ương để qua đó điều chỉnh, kiện toàn cơ quan lãnh đạo: ai có đủ đức, tài thì tiếp tục phát huy, còn ai không đủ đức, tài thì cần cho rút lui để đưa người có đức có tài thay thế, chứ không thể cứ "sống lâu lên lão làng".
Không nên 'độc diễn' khi quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (1988) mà nên có một số người ra ứng cử chức vụ nói trên với chương trình hành động cụ thể của mình. Quốc hội sẽ chọn một chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong số các ứng viên ấy bằng lá phiếu kín của mình.
Quốc hội cần cách chức một số bộ, thứ trưởng có liên quan không làm tròn trách nhiệm, dẫn đến hậu quả là có trên 10 triệu người ở miền Bắc bị đói năm 1987, và nhân dân cả nước sống cơ cực kéo dài...

Thế nhưng đối với lãnh đạo (đảng và nhà nước) các cuộc đấu tranh bằng hình thức nói trên của Câu lạc bộ kháng chiến thành phố là một sự đe dọa. Do đó, lãnh đạo đã tìm mọi cách hạn chế, ngăn chặn các hoạt động của Câu lạc bộ như: không cho hội thảo, mít tinh hoặc có hội thảo, mít tinh nhưng số người dự ít thôi; tịch thu ấn bản để câu lạc bộ không ra báo được. Trước khó khăn đó, với tinh thần bám chặt các quyền tự do dân chủ của công dân đã ghi rõ trong hiến pháp như: tự do ngôn luận, tự do báo chí... anh em Câu lạc bộ phải cấp tốc đem bài vở chạy xuống Mỹ Tho - Tiền Giang để nhờ giúp đỡ.
Tại đây, anh em địa phương rất nhiệt tình, hì hục suốt ngày đêm làm xong ấn bản lần thứ hai thì lại được lệnh của Ban tuyên huấn tỉnh uỷ là không được in báo cho Câu lạc bộ kháng chiến thành phố. Thế là anh em Câu lạc bộ phải chạy xuống Cần Thơ - Hậu Giang cầu cứu với ấn bản có sẳn. Nhờ sự thông cảm và tận tình của anh em địa phương, chỉ trong vài ngày, 20 ngàn tờ báo 'Truyền thống kháng chiến' đã được in ra. Sở Văn hóa Thông tin ra lệnh tịch thu tờ báo số 03 nầy đang được phát hành và sau cùng cơ quan chính quyền đóng của vĩnh viễn báo 'Truyền thống kháng chiến'. Tờ báo được nhiều cảm tình của đông đảo bạn đọc luôn luôn chờ đón.

Kế hoạch đàn áp
Ngay lúc ấy, trung ương đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và bí thư thành uỷ Võ Trần Chí cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng đã họp bàn kế hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp câu lạc bộ kháng chiến thành phố và nhiều nơi khác. Ý kiến phát biểu, lên án, buộc tội câu lạc bộ kháng chiến thành phố của Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng trong cuộc họp nói trên được in ra và phát hành khắp cả nước. Thế là, liền sau đó CLBKC/TP bị cấm hoạt động. Một câu lạc bộ kháng chiến mới với ban chủ nhiệm mới - như một thứ 'kiểng' trang trí, hình thành nhằm vô hiệu hóa, tê liệt hóa phong trào đấu tranh chống tiêu cực, suy thóai trong hàng ngũ đảng và nhà nước vừa mới dâng lên và cũng nhằm củng cố chế độ độc tài, phản dân chủ.

Trước không khí ngột ngạt ấy, tôi đã quyết định rời bỏ thành phố về sống ở nông thôn để tiếp tục cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân đến hơi thở cuối cùng. Ngày 21/03/1990, tôi rời khỏi Sài Gòn cũng là ngày tôi ly khai đảng cộng sản Việt Nam. Ðảng mà sau 54 năm đeo đuổi cách mạng (với tư cách đảng viên) của tôi, nay đã trở thành vô nghĩa. Sau cái ngày đáng ghi nhớ ấy khoảng hơn một tháng, một số anh em CLBKC/TP gồm: Tạ Bá Tòng (Tám Cần), Hồ Văn Hiếu (Hồ Hiếu), Ðỗ Trung Hiếu (Mười Anh) bị bắt, cả Lê Ðình Mạnh - người ủng hộ tích cực CLBKCTP cũng bị bắt sau đó.

Vào cuối tháng 08/90, Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt đi gặp tôi ở vùng Phú Giáo - miền Ðông Nam Bộ, cách Sài Gòn khoảng 60 cây số, tại cái chòi sản suất của nông dân. Ông Kiệt hỏi tôi: "Thế nầy là sao? ". Tôi trả lời: "Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông thôn ở cho khỏe". Ông Kiệt nói: "Anh cứ về thành phố ai làm gì anh". Tôi đáp: "Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã muộn rồi, bởi vì dưới sự lãnh đạo của trung ương ÐCSVN lúc bấy giờ đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cùng các ông: Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí, Trần Trọng Tân, Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng... cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi (Nguyễn Hộ) là tên phản động, gián điệp, móc nối với CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống đảng, chống nhà nước. Lập tổ chức quần chúng (CLBKCTP) chống đảng, lật đổ chính quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng nhằm lật đổ đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng đảng cộng sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy được.Tình hình như vậy tôi trở về thành phố làm gì trừ khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do thật sự. Do đó tôi quyết sống ở thôn quê cho đến ngày cuối cùng của đời tôi."

Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiệt diễn ra từ 7 giờ 30 phút sáng đến 11 giờ trưa thì kết thúc và chia tay. Ðược biết là từ sau lần gặp gỡ đó, ông Kiệt tỏ ra phấn khởi và nhắn muốn gặp tôi lần thứ hai ở một địa điễm nào đó gần Sài Gòn để tiện việc đi lại. Khi được tin nầy, tôi có viết thư trả lời cho ông Kiệt rằng cuộc gặp gỡ lần thứ hai không cần thiết.

Sau đó, khoảng nửa tháng thì tôi bị bắt (07/09/90) trên sông Sài Gòn vào lúc 7 giờ sáng khi tôi bơi xuồng vừa cặp vào bờ, định bước lên vào đám ruộng cạnh đó để hái rau má, rau đắng về ăn. Ðúng vào thời điểm ấy, một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6-7 thanh niên khỏe mạnh. Bỗng có tiếng hỏi to:"Bác ơi! bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy ngang qua đây không?" "Không!" tôi trả lời. Liền đó có tiếng hét to: "Ðúng nó rồi!".
Lúc bấy giờ, tôi mới biết là ghe của công an và nghe tiếng súng lên cò rốp rốp. Tức thời có hai công an cường tráng, tay cầm súng đã nạp đạn nhảy xuống mũi xuồng nơi tôi đang đứng. Tôi bình tĩnh hỏi:"Mấy chú muốn gì?". "Muốn gì về sở thì biết" tiếng trả lời xấc xược của một công an. Hai công an đồng loạt nắm tay tôi, kéo mạnh ra phía sau rồi còng ngay. Họ điều động tôi sát chiếc ghe lớn có tấm ván dài bắt từ mũi ghe xuống đáy. Họ xô mạnh tôi chúi mũi và tuột xuống đáy ghe. Ghe nổ máy chạy dọc con sông lên hướng Tây Bắc độ 15 phút thì rẽ vào rạch nhỏ đi sâu đến bến. Tại đây có chiếc xe hơi nhỏ đậu sẵn. Tôi được điều lên xe và đổi còng từ phía sau ra phía trước, với bộ y phục: quần xà lỏn đen và cái áo đen ngắn tay đã xuống màu, hai bên có hai công an ngồi sát và một công an khác ngồi phía trước. Sau nửa giờ xe chạy thì đến nơi. Người ta đưa tôi vào một nhà lá trống trải, không có cửa. Tôi được ngồi nghỉ trên cái gường gỗ nhỏ có trải chiếc chiếu cũ. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng chính lực lượng công an huyện Củ Chi đã săn bắt tôi (tất nhiên theo lệnh của Sở Công an Thành phố và Bộ Nội vụ).
Củ Chi tôi rất quen thuộc và thân thiết - đã gợi lên trong đầu óc tôi biết bao cảm nghĩ: Củ Chi địa đạo, bom đìa, pháo bầy, Củ Chi tan nát, anh dũng, chịu đựng, gian khổ, hy sinh, nước mắt đau thương xen lẫn với nụ cười chiến thắng mà bản thân tôi trong một số năm chia xẻ đắng cay, ngọt bùi cùng đồng bào Củ Chi trong cuộc chiến tranh không cân xứng, vô cùng ác liệt giữa Mỹ và Việt Nam; hoặc nó gợi nhớ cho tôi bao nhiêu những kỷ niệm tốt đẹp trong hoà bình (1975-1989): đi thăm và uỷ lạo anh em thanh niên xung phong đang lao động xây dựng công trình thuỷ lợi Kênh Ðông Củ Chi để đưa nước từ hồ Dầu Tiếng về tưới cho hàng ngàn héc ta ruộng lâu nay thiếu nước của huyện; đi thăm và uỷ lạo các gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sĩ trong những ngày kỷ niệm lịch sử; hoặc đi thăm và tặng quà cho các thiếu nhi, học sinh nghèo của huyện; đi dự lễ trao tặng nhà tình nghĩa của ban, ngành, đoàn thể, cơ sở kinh doanh, sản suất cho gia đình đối tượng chính sách trong huyện. Ôi! Ý nghĩ sao mà miên man.

'Tư tưởng tôi bay bổng'
Ðúng 4 giờ rưỡi chiều hôm đó, tôi được đưa lên ô tô để về Sài Gòn. Trước và sau xe tôi còn có mấy xe khác đầy nhân viên công an. Khi đèn đường thành phố rực sáng thì xe tôi đến cơ quan Bộ nội vụ (tức Tổng Nha Cảnh Sát cũ trước đây). Tôi ngồi ở cơ quan nội vụ hơn 1 giờ thì được đưa thẳng lên Xuân Lộc (Ðồng Nai), có nhiều xe công an hộ tống. Hơn 10 giờ đêm thì tới Xuân Lộc, tôi được đưa đến một nhà trống (nhà tròn) của k4 với một bán đội công an võ trang đầy đủ. Ðược một tuần, người ta đưa tôi trở về thành phố quản thúc tại Bình Triệu, ở một địa điểm đối diện với cư xá Thanh Ða. Sau hơn bốn tháng sống biệt lập luôn luôn có một tiểu đội công an canh giữ, tôi được đưa về quản thúc tại gia vào đúng ngày 30 tết nguyên đán (đần năm 1991) từ đó về sau nầy.

Khi gặp tôi tại ba địa điểm nói trên, các ông: Võ Văn Kiệt (Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng), Mai Chí Thọ (Bộ trưởng bộ nội vụ), Võ Trần Chí (Bí thư thanh uỷ), Võ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ nội vụ), Nguyễn Võ Danh (Phó bí thư thành uỷ), Trần Văn Thanh (Thành uỷ viên) ... đều bảo tôi phải làm kiểm điểm (để qua đó lãnh đạo sẽ xem xét và giải quyết vấn đề của tôi theo cách giải quyết nội bộ).
Nhưng tôi nghĩ: tôi không có tội lỗi gì trong hành động của mình - hoạt động câu lạc bộ kháng chiến, không lẽ đấu tranh chống tiêu cực (theo chủ trương, nghị quyết của ÐCSVN): chống tham nhũng, chống quan liêu cửa quyền, ức hiếp, trù dập, hãm hại quần chúng; chống tư tưởng bè phái, bao che cho nhau, những người đã gây biết bao tác hại cho nhân dân, đất nước, không đức, không tài mà cứ ngồi lì ở cương vị lãnh đạo; đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái như vậy là hành động phản cách mạng, phản động, nối giáo cho giặc sao? Do đó, tôi không làm kiểm điểm mà chỉ phát biểu quan điểm của mình về tình hình chung trong nước và sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. (trên 20 trang)

Kiểm điểm là mang tính chất nội bộ. Còn đây là việc hoàn toàn khác hẳn: người ta chĩa súng vào tôi, bắt còng tôi, đem giam và quản thúc. Như vậy, vấn đề đã đi quá xa, còn đâu là nội bộ nữa, vì tôi bị coi là kẻ thù của ÐCSVN rồi kia mà. Cho nên điều chủ yếu của tôi là chờ được đưa ra tòa xét xử, xem tôi đã phạm tội gì, nặng cỡ nào với những chứng cớ chính xác của nó. Khi tôi bị bắt không hề có lệnh của tòa án hay Viện kiểm sát. Hơn nữa, đã trên hai năm bị quản thúc, vấn đề của tôi chưa được phơi bày trước ánh sáng công lý. Ðiều đó cho thấy ở Việt Nam hiến pháp, luật pháp bị chà đạp cỡ nào.

Câu lạc bộ kháng chiến thành phố bị đàn áp, tôi bị bắt cũng như một số anh em khác trước đó. Chúng tôi được nếm mùi còng sắt của ÐCSVN - cũng giống như còng sắt của đế quốc ngày xưa - rồi bị giam, bị quản thúc, trở thành người hoàn toàn mất tự do, cách ly với thế giới bên ngoài. Ðó là điều bất hạnh.

Tuy nhiên, vì tôi đã ly khai ÐCSVN lúc tôi rời thành phố về sống ở nông thôn (21/03/90), nên hơn lúc nào hết, về tinh thần và tư tưởng, tôi thấy mình hoàn toàn tự do, hoàn toàn được giải phóng. Bây giờ, trên đầu tôi không còn bị kẹp chặc bởi cái "kềm sắt" của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, của đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép tôi dám nhìn thẳng vào sự thật và dám chỉ ra sự thật, đặc biệt trong tình hình sụp đổ của Ðông Âu và sự tan rã của Liên Xô.

Khác với trước đây, khi còn là đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam - một thứ tù binh của đảng - tôi chỉ biết nói và suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ. Còn hiện nay, tôi suy nghĩ rất thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của tôi đã thực sự được giải phóng - tư tưởng đã bay bổng. Bởi vậy, tôi tự phát hiện cho mình nhiều điều lý thú mà bạn đọc sẽ có dịp tìm thấy trong bài viết nầy của tôi.

Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Ðảo (anh ruột) - Ðại tá quân đội nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09/01/66 trong trận ném bom tấn công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Cũ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng Nha Cảnh Sát hồi Tết Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Ðó là điều sỉ nhục.

Giữa tôi và bài viết của tôi là một thể thống nhất dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng "lột xác" đã diễn ra trong đầu óc tôi. Vậy xin mời bạn hãy đọc tiếp. Cám ơn.

Nguyễn Hộ

No comments: