Nhân
dịp 50 năm Sài Gòn thất thủ, ôn lại lịch sử “ai làm mất Miền Nam Việt Nam”?
Nguyễn Quốc Khải
14/12/2025
Theo
thói quen đa số người Việt gốc miền Nam Việt Nam đều chỉ trích Hoa Kỳ, đặc biệt
là Đảng Dân Chủ, đã bỏ rơi VNCH. Tin tưởng này được tăng cường bởi những lập luận
thiếu căn bản dựa trên những tài liệu thiếu cập nhật của những cố vấn cũ của
ông Nguyễn Văn Thiệu. Ít người có can đảm và tính chất vô tư để nhìn vào sự thật.
Thực
tế theo những tài liệu đã được giải mật, việc Hoa Kỳ rút quân và ngưng viện trợ
cho Việt Nam là quyết định chung của cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Hầu hết
dân Hoa Kỳ đã quay sang chống chiến tranh Việt Nam từ năm 1963. Sau biến cố Tết
Mậu Thân, phong trào phản chiến càng mạnh. Hoa Kỳ đã bắt đầu rút một số chiến cụ
ra khỏi Việt Nam từ năm 1968. Hiệp Định Paris 1973 là do Nixon và Kissinger chủ
xướng để tạo cơ hội an toàn cho người Mỹ rút khỏi Việt Nam (Decent Interval của
Frank Snepp).
HÌNH
: https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-71-1068x646.jpg
KS Phan
Khắc Sửu GS Trần Văn Hương BS Phan Huy Quát
Dưới
thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963), kinh nghiệm về loạn sứ quân, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã kiềm chế các đảng phái quốc gia đối lập. Khi lên nắm chính quyền,
ông Diệm thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị Việt Nam vào năm 1954 dựa vào thành phần
công chức và quân đội. Đến năm 1963 đảng Cần Lao tan rã. Trong thời Đệ Nhị Cộng
Hòa (1967-1975), các đảng phái quốc gia được tự do hoạt động hơn, nhưng phân
hóa nội bộ và không có thực lực. Cũng như ông Diệm, khi lên nắm chính quyền,
ông Thiệu đã nhanh chóng thành lập đảng Dân Chủ vào năm 1967 và cũng dựa vào
công chức và quân đội. Đến năm 1969, đảng Dân Chủ giải tán và được ông Thiệu
thay thế bằng Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội. Vào năm 1975, Mặt Trận QGDCXH sụp
đổ theo miền Nam Việt Nam.
Ngày
19/6/1965 là Ngày Quân Lực, nhưng cũng chính là ngày chính phủ dân sự Phan Khắc
Sửu trao trách nhiệm lãnh đạo quốc gia cho quân đội vì Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu
không thể giải quyết những mâu thuẫn chính trị với Thủ Tướng Phan Huy Quát. Do
đó, quyền điều hành đất nước rơi vào tay phe quân nhân. Chính những cuộc đảo
chính, chỉnh lý, và đấu đá nội bộ liên tục từ năm 1955 đến 1975 phần lớn do các
tướng tá VNCH cầm đầu là nguyên nhân chính đã làm suy yếu và cuối cùng làm sụp
đổ miền Nam.
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-72.jpg
Trong
những tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam, ông Nguyễn Văn Thiệu còn lo sợ bị
đảo chánh. Vào tháng 2 năm 1974, ông Thiệu ra lệnh bãi nhiệm cựu Thiếu Tướng Phạm
Văn Đỗng đang giữ chức vụ bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh trong chính phủ Trần
Thiên Khiêm, và bắt giam ông với tội chứa bạc lậu mà không xét xử. Vào ngày
8/4/1975 có hai biến cố lớn xẩy ra. Phi công Nguyễn Thành Trung từ phi trường
Biên Hòa bay về Sài Gòn ném bom Dinh Độc Lập vào lúc 8:30 phút sáng. Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III ở Biên Hòa, chết đầy bí ẩn tại văn
phòng, được khám phá vào 4 giờ chiều.
Theo
một bản phúc trình của ông Frank Snepp, nhân viên CIA tại Việt Nam, về tình trạng
của chính quyền miền Nam Việt Nam: Nhiều người Sài Gòn, gồm cả ông Nguyễn Cao Kỳ,
muốn lật đổ, kể cả ám sát ông Thiệu vì tình hình chiến sự trở nên tồi tệ sau
khi ông Thiệu rút quân khỏi cao nguyên Trung Phần. Ông Nguyễn Văn Thiệu bị ép
buộc phải từ chức vào ngày 21/4/1975. Tổng Thống Trần Văn Hương đã gặp Đại Sứ
Hoa Kỳ Graham Martin để yêu cầu giúp đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam vào ngày
25/4/1975 vì ông Thiệu là nguồn gốc của sự hỗn loạn lúc bấy giờ. Bà Nguyễn Văn
Thiệu đã bay qua Bangkok trước đó để lánh nạn.
Đã
có vài cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954-1975. Trên
internet cũng có khá nhiều bài báo phân tách những vấn đề này. Thế hệ lớn tuổi
sinh vào thập niên 40-50 đều có ít nhiều kiến thức về lịch sử cận đại. Nói về
Ngô Đình Diệm, Bẩy Viễn, Ba Cụt, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, hay cuộc đảo
chánh ngày 1/11/1963 thì ai cũng biết. Bài báo ngắn gọn này chỉ trả lời một câu
hỏi duy nhất ‘những nhân vật chính nào làm mất miền Nam Việt Nam’, dựa vào dữ
kiện lịch sử.
Dĩ
nhiên có rất nhiều lý do khiến miền Nam sụp đổ, như cuộc khủng hoảng Phật Giáo,
phong trào phản chiến, nhưng tựu trung vẫn rơi vào trách nhiệm của những người
lãnh đạo. Cá nhân 18 nhân vật được nêu tên không thể làm được gì, nhưng phía
sau lưng họ có không ít những kẻ đồng lõa.
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-73.jpg
18
nhân vật gây xóa trộn ở Miền Nam Việt Nam
Ông
Ngô Đình Diệm chịu trách nhiệm về khủng hoảng Phật Giáo năm 1963, nhưng đằng
sau ông là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân, và Tổng Giám Mục Ngô Đình
Thục với tham vọng trở thành Đức Hồng Y. Lệnh cấm không cho treo cờ Phật Giáo tại
tư gia vào ngày lễ Phật Đản 8/5/1963 là một giọt nước cuối cùng làm chế độ Ngô
Đình Diệm sụp đổ.
Nhóm
tướng lãnh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963 ngoài Dương
Văn Minh còn có hơn 10 sĩ quan cao cấp khác, bao gồm Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim,
Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh, Lê Văn Phát, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Hữu Có, Phạm Văn
Đỗng, Đỗ Mậu, Trần Thiện Khiêm, Phạm Xuân Chiểu, Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Thiệu, và
Nguyễn Cao Kỳ.
Những
sĩ quan chống lại đảo chánh là Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền và Huỳnh Văn Cao. Tướng
Cao Văn Viên không chống mà cũng không tham dự đảo chánh. Ông Viên suýt bị nhóm
Dương Văn Minh thủ tiêu như đã giết Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền. Đại Tá Lê
Quang Tung là tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, kiêm chỉ huy trưởng Liên Quân Phòng Vệ
Phủ Tổng Thống. Ông theo đạo Công Giáo và quê quán ở Thừa Thiên, được Tổng Thống
Diệm tin dùng. Đại Tá Tung và em là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, cùng với tư lệnh
các quân binh chủng và các giám đốc nha sở ở Sài Gòn được lệnh về họp tại Bộ Tổng
Tham Mưu vào ngày đảo chánh 1/1/1963. Buổi chiều cùng ngày, hai anh em Đại Tá
Tung bị giết chết. Thân xác hai ông bị thất lạc cho đến ngày nay.
Tướng
Huỳnh Văn Cao, một sĩ quan Công Giáo, trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
không mang quân về giải cứu Sài Gòn được vì quân đảo chánh đã rút hết các phà ở
bến Mỹ Thuận, Tiền Giang về phía bắc. Sau khi đảo chánh thành công, ông tuyên bố
ủng hộ nhóm Dương Văn Minh, nhưng vẫn bị cách chức tư lệnh Quân Đoàn IV và bị
thuyên chuyển đi làm chỉ huy trưởng Trung Tâm Phát Triển Khả Năng Tác Chiến.
Đại
Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân, đã hai lần cứu nguy Tổng Thống Ngô Đình Diệm
trong cuộc đảo chánh 11-11-1960 do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu và vụ ném bom Dinh
Độc Lập vào ngày 27-2-1962 do hai sĩ quan phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc
chủ mưu. Đại Tá Quyền bị hai sĩ quan dưới quyền sát hại vào sáng ngày 1-11-1963
tại một rừng cao su tại Thủ Đức theo lệnh của nhóm đảo chánh do Tướng Dương Văn
Minh cầm đầu.
Ông
Cao Văn Viên là một người ngưỡng mộ Tổng Thống Diệm. Ông cũng bị nhóm tướng
lãnh giam giữ nhưng thoát chết vì sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính. Ông
Đính thuyết phục ông Dương Văn Minh rằng ông Viên không chống đảo chánh. Phu
nhân của Tướng Viên là bạn chơi mạt chược với ông Đính. Ba tháng sau, ông Minh
bị tướng Nguyễn Khánh đảo chánh lật đổ. Thế cờ lật ngược một cách oái ăm. Lính
nhẩy dù của tướng Viên đã canh giữ ông Minh bị giam lỏng ở Đà Lạt. Đại Úy Nguyễn
Văn Nhung, cận vệ của Tướng Dương Văn Minh, người hạ sát hai anh em ông Ngô
Đình Diệm và hai anh em ông Lê Quang Tung, sau đảo chánh được thăng cấp thiếu
tá, bị tướng Khánh ra lệnh giết chết.
Trong
cuộc phỏng vấn với BBC vào tháng 10 năm 2021, ông Frank Snepp, tác giả cuốn
sách “Decent Interval”, một người bạn của Việt Nam, đã nói với nhà báo Tina Hà
Giang:
“Tôi
nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ
nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ vì sự việc phức tạp hơn nhiều. Một lần nữa, Hoa
Kỳ có bỏ rơi VNCH không là một câu hỏi phức tạp, nhưng nói chung là có.
Kissinger và Nixon đã bỏ rơi Việt Nam. Nhưng việc thất trận của VNCH đến từ những
lý do gần nhà hơn“. Frank Snepp ám chỉ rằng, thua trận là do người Việt và
hai yếu tố quan trọng là tham nhũng và kém hiệu quả.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-74-1024x785.jpg
Báo
New York Times tương thuật cuộc tấn công Tòa Đại Sứ Hoa ở Sài Gòn của VC vào ngày
30-1-1968 bị đẩy lui sau 6 tiếng đồng hồ.
Biến
cố Tết Mậu Thân là một thí dụ của việc kém hiệu quả, thay đổi cả số phận của nước
Việt Nam. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của CSVN dưới chiêu bài Quân Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam nhằm vận động quần chúng nổi dậy giành chính quyền,
đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược tấn công từ rừng núi, nông thôn vào thành
phố. Chiến dịch diễn ra trên hầu hết các đô thị tại miền Nam, nhắm
vào những khu vực trọng yếu của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa và vào khoảng
thời gian của cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 9 năm 1967
và cuộc thống Mỹ vào tháng 11 năm 1968.
Việc
chuẩn bị cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 kéo dài hơn hai năm mà chính quyền
VNCH và tình báo Mỹ hoàn toàn không hay biết. CSVN đã vận chuyển thêm nhiều võ
khí, lương thực, thuốc men, và khoảng 94,000 binh lính miền Bắc vào Nam dọc
theo dãy Trường Sơn và qua cảng Sihanouk. Lúc trận chiến Mậu Thân xảy ra thì Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho ăn tết vì tin vào lời hứa hưu chiến của
CSVN. Tuy bị đánh bất ngờ, nhưng quân lực VNCH đã mau chóng đẩy lui được quân
CSVN ngoại trừ Huế phải mất một tháng từ ngày 30/1/1968 đến 28/2/1968. Dân miền
Nam đã không nổi dậy như CSVN mong muốn.
Về
mặt quân sự, CSVN đã thất bại trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân với tổn thất
nhân sự rất lớn. Thiệt hại của Cộng quân là 40,000 binh sĩ so với VNCH và Mỹ là
3,000 người. Ngoài ra, nhiều cơ sở nằm vùng của Cộng Sản đã bị lộ tẩy. Phải chờ
đến 1972, CSVN mới thực hiện được cuộc tấn công vào lễ Phục Sinh 1972, nhưng
không phải dưới chiêu bài MTGPMN nữa, mà trực tiếp công khai từ tràn qua sông Bến
Hải.
Tuy
nhiên CSVN đã gây được một thắng lợi chính trị to lớn. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân làm sụp đổ hoàn toàn ý chí chiến đấu của chính quyền và sự ủng hộ của dân
Mỹ, đặc biệt là khối người gốc Do Thái vì tình hình Trung Đông vào thời điểm
này đang sôi sục. Nước Mỹ phải rút ra khỏi vùng Đông Nam Á để cứu Do Thái.
Trong thập niên 1960, Trung Đông bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập đang
trỗi dậy, cuộc xung đột Ả Rập-Israel đang diễn ra lên đến cao điểm là Chiến
tranh sáu ngày năm 1967 và sau đó là cuộc chiến Yom Kippur War 1973.
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-75-1024x881.jpg
Sau
cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, Tướng William Westmoreland, chỉ huy lực lượng
Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã yêu cầu tăng thêm 206,000 quân để giành lại thế chủ động
và giành chiến thắng, nhưng Tổng thống Lyndon B. Johnson đã từ chối yêu cầu
này, thay vào đó chỉ chấp thuận tăng cường quân số ít hơn (khoảng 24,200 quân),
một quyết định làm thay đổi đáng kể chính sách của Hoa Kỳ và dẫn đến việc
Johnson quyết định không tái tranh cử. Cuộc tổng tấn công 1968 là khúc quanh lịch
sử của chiến tranh Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, như cựu nhân viên tình báo CIA
Frank Snepp xác nhận, phần lớn lực lượng Hoa Kỳ đã rút ra khỏi Việt Nam, không
phải chờ đến Hiệp Định Paris.
Khi
Tổng Thống Richard Nixon lên nắm chính quyền, Hoa Kỳ bắt đầu đơn phương rút
quân khỏi Việt Nam vào tháng 7 năm 1969, với nhóm đầu tiên gồm 814 binh sĩ theo
kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Quá trình rút quân được thực hiện theo từng
giai đoạn và kết thúc vào ngày 29-3-1973, khi những binh sĩ chiến đấu cuối cùng
của Hoa Kỳ rời đi, mặc dù vẫn còn một số nhân viên hỗ trợ ở lại.
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-76-1024x813.jpg
Người
dân Huế thu hồi xác thân nhân bị Cộng Quân sát hại dịp Tết Mậu Thân 1968 (Hình : Flicr manhhai)
Ngay
từ cuối năm 1970, Tu Chính Án lưỡng đảng Cooper-Church của Foreign Assistance
Act 1970 được Quốc Hội thông qua đã cấm quân đội Mỹ tham gia vào các hoạt động
chiến đấu trên bộ ở Lào hoặc Campuchia.
Dự
thảo Tu Chánh Án lưỡng đảng McGovern-Hatfield gắn liền vào Military Procurement
Bill cũng đã đệ trình Quốc Hội, đòi hỏi Hoa Kỳ chấm dứt các hoạt động quân sự tại
Việt Nam Cộng hòa vào ngày 31-12-1970 và rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ vào giữa
năm sau. Chính quyền Nixon đã phản đối mạnh mẽ tu chánh án này vì cho rằng ấn định
thời hạn rút quân sẽ làm suy yếu vị thế đàm phán của Hoa Kỳ với chính quyền Hà
Nội. Do đó nó đã không được Quốc Hội thông qua hai lần. Cuốn sách “Khi Đồng
Minh Tháo Chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng không đề cập đến hai tu chánh án
trên đây và cũng không nói đến phong trào quần chúng Mỹ phản chiến.
Vì
biết Hoa Kỳ đã khởi sự rút quân và biết rằng không có chuyện dân miền Nam tổng
khởi nghĩa lật đổ chế độ VNCH, cho nên Lê Duẩn đã công khai xua quân vượt sông
Bến Hải vào mùa hè đỏ lửa.
Vấn đề là
người Việt có can đảm nhìn vào sự thật hay không hay là cứ tiếp tục lừa bịp
chính mình và đánh võ tự do, không biết ai là thù, ai là địch. Chắc chắn không
phải đơn giản là vì không có $300 triệu tiền viện trợ súng đạn mà giờ chót cứu
được miền Nam. Không ít người Việt mê muội theo Cộng Hòa cuồng Trump để trả thù
đảng Dân Chủ, một lần nữa lại đặt hy vọng vào một ông tổng thống điên khùng Hoa
Kỳ sẽ cứu Việt Nam. Thật đầy mâu thuẫn.
Miền
Nam Việt Nam được yên ổn và phát triển vào những năm 1955-1960. Giai đoạn tiếp
theo 1961-1975 đầy những xáo trộn và bất trắc ngay trong nội bộ. Thù trong giặc
ngoài đến kinh hoàng. Tranh giành quyền lực giữa các phe phái quốc gia làm miền
Nam ngày càng suy yếu. Trong lúc đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt
Nam, công cụ của Cộng Sản Bắc Việt, thành lập vào ngày 20-12-1960, lợi dụng thời
cơ bành trướng mạnh. Hậu quả không tránh được là miền Nam đã sụp đổ vỏn vẹn
trong 15 năm ngắn ngủi.
Tiên
trách kỷ, hậu trách nhân. Nhìn vào sự thật để rút kinh nghiệm, nếu không, sai lầm
này đưa đến sai lầm khác.
No comments:
Post a Comment