Kẻ sĩ dưới
thời Võ Văn Kiệt (Bài 1)
21/12/2025
https://baotiengdan.com/2025/12/21/ke-si-duoi-thoi-vo-van-kiet/
LGT: Đầu tháng
7/2025, ông Tô Lâm từng đăng đàn kêu gọi có chính sách vượt khung để thu hút ít nhất 100 chuyên gia về
nước. Tuy nhiên, kể từ đó đến nay, đã gần sáu tháng trôi qua, không thấy
một chính sách cụ thể nào được đưa ra, cũng không thấy có trí thức nào ở nước
ngoài trở về làm việc? Còn trí thức
trong nước thì lạc lõng và… nản. Phải chăng họ đã chán nghe những lời
sáo rỗng từ những kẻ xuất thân từ bộ máy công an trị rồi.
Nhân
đây, kính mời độc giả nhìn lại cách cố thủ tướng Võ Văn Kiệt trân trọng người
tài ra sao, qua bài viết sau đây của nhà báo Phạm Phú Thép:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-100.jpg
Ông
Thủ tướng Võ Văn Kiệt về khảo sát và xây dựng chủ trương làm Cảng biển Hòn La đầu
những năm 1990. Nguồn: Phạm Phú Thép
1.
Đọc sách và tìm hiểu về Thủ tướng Võ Văn Kiệt thấy dưới thời ông, sao lắm kẻ sĩ
người tài đến thế, nhất là thời ông ở Sài Gòn. Ông dùng người tài rất đa dạng,
không kể xuất xứ nguồn gốc, chỉ cần người tài có tâm vì tổ quốc là ông dùng. Có
nhiều người tài họ tuyên bố chỉ phục vụ anh Sáu mà thôi, khi anh Sáu dùng thì họ
ở lại còn anh Sáu không dùng hoặc đi chỗ khác thì họ xin anh Sáu cho họ ra nước
ngoài.
Ông
kiệt thường nói, chúng tôi đi theo cách mạng nếu có mất thì mất cái quần xà lỏn.
Còn các nhà trí thức, các đại điền chủ đi theo cách mạng là họ chấp nhận sự hy
sinh rất lớn, gia tài, điền sản, công danh bổng lộc. Đóng góp lớn nhất của họ
là uy tín, trí tuệ, là tấm gương xả thân vì nghĩa lớn. Sẽ là có tội với lịch sử
nếu như chúng ta chưa làm được điều đó.
Ông
Kiệt rất trăn trở cách dùng người của ta, chưa sử dụng hết năng lực, trí tuệ của
những hiền tài quốc gia. Chỉ riêng hai năm 1977 và 1978, gần một ngàn trí thức,
hiền tài đã vượt biên đi ra nước ngoài. Hầu hết trong số trí thức đó là do
không được ta sử dụng đúng khả năng. Có những người chờ đợi để nhận thông tin
nhưng không có hồi âm. Với các nhà khoa học như vậy là họ đã “chết” nên họ phải
bỏ đất nước để ra đi.
2.
Hai kẻ sĩ quyết tâm ở lại đất nước để giúp ông Võ Văn Kiệt là tiến sĩ hàng đầu
về kinh tế ngân hàng Nguyễn Xuân Oánh và Tiến sĩ kinh tế học Nguyễn Văn Hảo.
Hai ông đều là những chuyên gia kinh tế tầm cỡ thế giới, từng là Phó Thủ tướng
dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ông
Hảo bảo với ông Kiệt, là người Việt Nam ai cũng yêu nước nhưng hiểu về chủ
nghĩa xã hội thì nhiều người chưa hiểu, tôi cũng vậy. Tôi học tiến sĩ bên Mỹ,
người ta mời tôi ở lại, những công ty tầm cỡ thế giới với mức lương ưu đãi
nhưng tôi không ở lại. Tôi về đất nước tôi. Không phải tôi ham cái chức Phó thủ
tướng đâu. Ai hiểu vậy là sai lầm. Tôi nghĩ, thống nhất là nguyện vọng của nhân
dân cả nước. Nghề tôi chế độ nào cũng cần. Tôi ở lại không đi di tản là vì ý
nghĩ đó. Bao giờ anh Sáu thấy không cần tôi nữa, tôi đi.
Tiến
sĩ Hảo hạ giọng, nói thật tôi ở lại vì tôi yêu đất nước này và cũng có phần vì
anh Sáu nữa. Nếu sau này anh Sáu chuyển đi nơi khác hoặc ra Trung ương, tôi xin
anh Sáu cho tôi đi.
Tiến
sĩ Hảo và Tiến sĩ Oánh nói với ông Kiệt, họ đánh giá 6 sự kiện mà cũng là những
đóng góp tâm huyết để từ đó ông Kiệt có những tháo gỡ cho Sài Gòn
Đó
là:
–
Trong tiến trình phát triển kinh tế, tư bản và kỹ thuật là hai yếu tố then chốt
–
Các nước có thể thâu ngắn quá trình phát triển bằng kỹ thuật
–
Quan hệ giữa các nước là quan hệ về quyền lợi
–
Có sự giới hạn trong khả năng viện trợ kinh tế của nền kinh tế chỉ huy
–
Nguồn dự trữ kỹ thuật và vốn hiện nay đang nằm trong các nền kinh tế thị trường
–
Hoàn cảnh khách quan của Việt Nam bắt buộc chúng ta phải thực tế trong các mục
tiêu.
Ông
Oánh nói với ông Kiệt: Muốn phát triển kinh tế phải mở rộng nền kinh tế thị trường.
Ông Hảo nói ngay, các ông cộng sản làm sao dung nạp được chén thuốc đắng đó.
Ông
Oánh bảo: Lần đầu tiên tôi nhận ra nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngay giữa Sài
Gòn với sự tập trung toàn bộ của cải về Trung ương rồi Trung ương phân phối về
các tỉnh theo một kế hoạch do Ủy ban kế hoạch điều phối cho nhu cầu người dân bằng
hệ thống thương nghiệp phân phối. Cái ý tưởng rất tốt đẹp nhưng thực tế thì rất
phức tạp phũ phàng. Một nền kinh tế không có sự cạnh tranh tất yếu sẽ đẻ ra các
tệ nạn như độc quyền, tham nhũng. TRÌ TRỆ là kẻ thù không đội trời chung cho sự
phát triển.
Ông
Oánh dự đoán, tôi nghĩ sớm muộn gì các anh cũng tự điều chỉnh. Và thế rồi, Sài
Gòn xóa bao cấp tiên phong trong cả nước đi vào cơ chế thị trường tạo tiền đề
cho sự đổi mới của cả nước.
3.
Sài Gòn có nền kinh tế thị trường từ thời Lê Văn Duyệt, chợ búa sầm uất, thuyền
nước ngoài vào nườm nượp, trên bến dưới thuyền. Năm 1859, Pháp sang chiếm đóng
kinh tế thị trường càng phát triển. Thời Mỹ dù chiến tranh nhưng hàng hóa không
thiếu. Nhưng sau 1975 thì những sai lầm lúng túng trong đường lối đã tạo nên một
Sài Gòn thiếu thốn. Người dân phải lãnh sổ, lãnh tem phiếu để mua từng cân gạo,
lạng thịt, bó rau… Điều chưa từng có ở Sài Gòn suốt trăm năm nay.
Ông
Hảo nói với ông Kiệt, giá mà sau khi thống nhất đất nước, các ông để cho hai miền
xây dựng hai nền kinh tế khác nhau, rồi hỗ trợ cho nhau, tôi tin chắc rằng Việt
Nam sẽ không thua bất kỳ một đất nước nào ở Đông Nam Á này.
Năm
1982, ông Kiệt rời Sài Gòn ra Hà Nội, ông Kiệt đến nhà ông Nguyễn Văn Hảo, ông
Hảo bảo, sáng nay đọc báo thấy tin anh chia tay nhân dân thành phố, tôi hơi hụt
hẫng, mặc dù tôi đã đoán trước điều này. Tôi giờ sẽ sống như một ẩn sĩ, tôi
không tới ai nữa, kể cả anh. Ông Kiệt đề xuất một điều, tôi muốn anh chị ở lại.
Đất nước này rất cần những người kinh tế tài giỏi như anh. Hôm nay anh chưa có
đất dụng võ thì ngày mai.
Ông
Hảo bảo, sau 1975, tôi ở lại là vì anh. Chứ cơ chế này, tôi không giúp gì được
cho anh và đất nước này đâu.
Ông
Kiệt xót xa níu kéo: Đất nước đang chuyển động theo hướng cởi mở hơn. Tôi tin một
ngày không xa những ý tưởng của anh sẽ được thực hiện. Và lúc đó nhân dân này,
đất nước này sẽ cần anh. Ông Hảo dứt khoát, vậy thì đến lúc đó hẵng hay, còn
bây giờ xin anh cho tôi đi.
Ông
Hảo và ông Oánh là những nhà kinh tế lớn tầm cỡ thế giới. Bề rộng khái quát thì
ông Hảo hàng đầu còn ông Oánh là chuyên gia sâu không phải nhà kinh tế nào cũng
có được.
Rất
tiếc! Họ là những kẻ sĩ nhưng vì những lý do nào đó không thể tiếp nhận họ, để
rồi đất nước cứ luẩn quẩn kéo dài trì trệ trong một nền kinh tế bao cấp.
*****
Từ
câu chuyện ông Võ Văn Kiệt cứu đói cho Sài Gòn đến khát vọng lãnh tụ (Bài 2)
21/12/2025
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/2-26.jpg
Cố
Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm và làm việc tại Ba Đồn. Nguồn: Internet
1. Cứu
đói cho Sài Gòn
Khi
đất nước lâm nguy trước những thử thách thì thường xuất hiện anh hùng lãnh tụ.
Đó là điều tất yếu của lịch sử. Dân luôn khao khát lãnh tụ để cứu nước cứu dân.
Năm
1976, Sài Gòn đói, đói kinh khủng bởi ta áp dụng chính sách sai, đưa nền kinh tế
miền Bắc vào thay thế nền kinh tế cũ của Sài Gòn, khiến cho miền Bắc đã đói, giờ
lại thêm miền Nam đói nữa. Cả nước đói trầm trọng. Đáng lý ta làm ngược lại,
duy trì nền kinh tế miền Nam, đẩy nó phát triển và dần thay thế nền kinh tế kế
hoạch hóa của miền Bắc. Nhưng ta không làm như thế. Và cả đất nước chìm trong
cái ĐÓI, bao nhân tài trí thức rũ áo ra đi. Và rồi xuất hiện ông Võ Văn Kiệt,
ông lên làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh và chính ông là người làm nên
công cuộc đổi mới của đất nước.
–
Việc đầu tiên là ông giải quyết cái đói, lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long chín đầy
đồng mà Sài Gòn đói là điều rất vô lý, sự bế quan tỏa cảng đã làm nên điều đó.
Ông lệnh cho bà Ba Thi phải xuống đồng bằng Cửu Long mua gạo theo giá thị trường
nghĩa là gấp 5 hoặc 6 lần giá nhà nước thu mua. Ông bảo bà Ba Thi, cứ làm nếu
Ba Thi vào tù, Bí thư Kiệt sẽ đưa cơm. Và bà Ba Thi đã về Cửu Long mua gạo,
thóc, dùng xe quân sự hộ tống để qua các điểm gác của các tỉnh. Nhờ cách làm
táo bạo của ông mà Sài Gòn thoát cơn đói.
–
Ông tên là Sáu Dân, đúng ông luôn vì dân. Giới trí thức Sài Gòn kính nể vì ông
có bộ lọc rất tốt. Ông nghe nhiều ý kiến thuận chiều và trái chiều nhưng qua bộ
lọc của ông ông sẽ thực hiện những ý kiến tốt nhất. Dân trí thức cứ tụ dần xung
quanh ông bởi ông luôn cháy hết mình một khát vọng duy nhất là vì dân và đổi mới
đất nước. Các trí thức Sài Gòn ví ông là chiếc xe tăng để làm bức tường thành bảo
vệ những tư duy kinh tế mới. Ông luôn nói với cán bộ rằng, các anh có hai sự lựa
chọn, giữ được chức mà dân đói hay mất chức mà dân no.
Tư
tưởng của ông là tư tưởng xé rào, vượt rào làm những gì có lợi cho dân, trọng
người tài, bảo vệ người tài.
–
Khi ổn định cái đói thì ông Kiệt tập trung vào phát triển kinh tế. Thời ấy có
câu vè Hà Nội có Lương mà không Lương, Sài Gòn có Kiệt mà không Kiệt. Ông triệu
tập các nhà kinh tế, các ông chủ xí nghiệp lại, nghe ông Kiệt triệu tập ai cũng
đến. Họ yêu cầu ông rằng, nếu phát triển lại sản xuất ông Kiệt không chỉ lo vốn
và nguyên liệu mà phải cho họ toàn quyền quyết định công việc không có sự can
thiệp của người khác. Thời ấy, bộ đội về là được giao phụ trách nhà máy, họ
không biết kinh tế, quản lý họ chỉ biết đánh giặc nên họ trở thành lực lượng
công thần duy ý chí trong sản xuất. Và ông Kiệt đã đồng ý.
2. Khát
vọng lãnh tụ
Tích
xưa, bí quyết dùng người của Lưu Bang chỉ gói gọn trong 5 chữ: “Nhất nhân thiên
hạ Trị” (trị thiên hạ chỉ một người): Trị một nước, cần một người. Giữ một
thành, cần một người. Quân một đạo, cần một người. Quan một ngạch, cần một người.
Tìm được người, dùng đúng người thì thành; Không tìm được người, không dùng
đúng người thì bại. Mỗi việc cần một người, đã tìm được người thì quyết dùng,
và đã dùng là rất tin.
“Người
cầm đầu như lông cánh của con chim. Con chim bay nhờ có lông cánh. Còn lông bụng
và lông lưng có nhiều đến mấy cũng không phải để bay”, Lưu Bang nói như vậy.
Công
thần dũng tướng của Lưu Bang đến từ bốn phương, tám hướng, và thuộc nhiều thành
phần khác nhau nhưng Lưu Bang không phân biệt sang hèn, miễn là người hiền tài
thì đều được trọng dụng. Trương Lương xuất thân từ quý tộc bị phá sản, Chu Bột
là người mổ lợn, Quán Anh là tay buôn vải, Hàn Tín là kẻ lang thang, Lịch Thực
là học trò nghèo, Bành Việt là tướng cướp… Tất cả những người ấy, mỗi người đều
có một cái tài riêng, và đều được Lưu Bang đặt vào đúng chỗ cả.
Đó
là quan điểm đề cao vai trò cá nhân, khác hẳn trách nhiệm tập thể mà chúng ta
đã từng biết, từng thực thi và giờ đây vẫn là một ngáng trở trong công cuộc đổi
mới. Nói “Trách nhiệm thuộc về chúng tôi” tức là không có ai phải chịu trách
nhiệm cả.
[Phạm
Phú] Thép đọc đi đọc lại cuốn sách, Võ Văn Kiệt trăm năm trong một chữ Dân thấy
dấu ấn cá nhân của Thủ tướng Võ Văn Kiệt rất đậm nét. Ông không câu nệ dùng người
tài, ai tài là ông dùng cho dù có người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Thậm chí
ông còn mời cả nguyên Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu sang giúp mình. Đại sứ
Lê Hồng Lam kể, ông Kiệt hay nói, bất cứ ai (Việt Kiều) thật tâm muốn đóng góp
xây dựng đất nước không nhất thiết phải tán thành chủ nghĩa xã hội. Thông điệp
đó là sự hòa hợp, hòa giải dân tộc, như một sự cởi trói trong tư duy ngoại
giao. Nếu ta hòa giải được với cựu thù, chơi được với những nước có chính thể
khác ta, thì tại sao ta không hòa hợp với chính đồng bào của mình. Từ chính
sách hòa giải đó mà sự đại đoàn kết với Việt kiều đã trở thành không thể đảo
ngược. Cộng đồng người Việt kiều trở thành một bộ phận không thể tách rời của
dân tộc Việt Nam.
Ông
Kiệt rất lắng nghe ý kiến của người tài, của những người trong tổ tư vấn của
ông nhưng khi quyết định là trách nhiệm cá nhân ông. Khi đã nghe và được thuyết
phục là ông quyết định ngay. Khi đã quyết là không còn bàn lùi mà tập trung giải
quyết vấn đề. Ông Nguyễn Ngọc Trân nguyên Phó ban đối ngoại quốc hội nói, dù ai
cũng thấy chuyện lắng nghe là đương nhiên, nhưng mà từ chuyện lắng nghe, muốn
nghe và cần nghe đi đến quyết định thì phải có bản lĩnh.
Đó
là bản lĩnh cá nhân, tinh chất của người lãnh đạo.
Phải
có lãnh tụ vì dân, trong giai đoạn đất nước khó khăn sẽ xuất hiện lãnh tụ để
làm đổi thay đất nước. Họ là nơi tập trung sự đoàn kết, ủng hộ những tư tưởng
xé rào sáng tạo để đất nước vượt qua thử thách tiến về phía trước.
Người
dân luôn khát vọng sự xuất hiện lãnh tụ.
No comments:
Post a Comment