Điều
gì quyết định sự sống còn của một nền dân chủ?
Emma Dương - Luật
Khoa tạp chí
JULY
17 202412:35 PM
https://www.luatkhoa.com/2024/07/dieu-gi-quyet-dinh-su-song-con-cua-mot-nen-dan-chu/
Thời
gian đầu của quá trình dân chủ hóa, một quốc gia phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn. Thực tế cho thấy, nhiều nền dân chủ mới không tồn tại được lâu và nhanh
chóng quay trở lại chế độ độc tài. Ví dụ, chỉ khoảng hai đến ba năm sau khi Mùa
xuân Ả Rập lật đổ những chế độ độc tài ở Trung Đông và Bắc Phi, người dân Ai Cập
và một số nước ở Ả Rập khác lại phải sống dưới một chế độ độc tài khác, thậm
chí cực đoan hơn. [1]
“Điều
gì ảnh hưởng đến sự sống còn của một chế độ dân chủ?”. Có nhiều câu trả lời cho
câu hỏi này, từ kinh tế, lịch sử, văn hóa đến môi trường quốc tế. Bài viết này
sẽ phân tích hai khía cạnh được cho là có tính quyết định sự hưng vong của một
nền dân chủ: (1) mô hình hành pháp và (2) bối cảnh độc tài trong quá khứ.
Mô
hình hành pháp
Cơ
quan hành pháp (chính phủ) là cơ quan thực thi pháp luật và chính sách được đưa
ra bởi nhánh lập pháp (nghị viện/quốc hội). Hiện nay, có hai mô hình hành pháp
mà một quốc gia dân chủ non trẻ có thể học tập theo. Một là mô hình chính thể cộng
hòa tổng thống (presidential system) mà điển hình là Mỹ. Hai là, mô hình chính
thể cộng hòa đại nghị (parliamentary system) của Anh.
Các
nhà khoa học chính trị phương Tây vẫn còn tranh cãi liệu mô hình hành pháp phù
hợp thì có thể bảo vệ nền dân chủ tốt hơn hay không. Và phe thắng thế đang ủng
hộ mô hình chính thể đại nghị kiểu Anh.
Cố
học giả Juan Linz (từng là giáo sư tại Đại học Yale, Hoa Kỳ) có lẽ là người ủng
hộ mô hình chính thể đại nghị mạnh mẽ nhất. Cách đây hơn 30 năm, trong hai bài
nghiên cứu gây tiếng vang đăng trên tạp chí Journal of Democracy, một trong những
tạp chí ngành khoa học chính trị uy tín, Linz đã chỉ ra một vài lý do vì sao
chính thể cộng hòa đại nghị bảo vệ nền dân chủ tốt hơn mô hình cộng hòa tổng thống.
[2]
Thứ
nhất, mô hình chính thể đại nghị nhìn chung cho phép nhiều đảng chính trị cùng
có mặt ở nghị viện và cùng tham gia vào quản trị đất nước. [3] Điều này có
nghĩa là cho phép các đảng chính trị - đại diện cho những nhóm khác nhau trong
xã hội - liên minh để cùng chia sẻ quyền lực.
Ngược
lại, hệ thống chính thể cộng hòa tổng thống thường chỉ cho phép một đảng duy nhất
điều hành chính phủ. Vì không tạo điều kiện cho sự thỏa hiệp và chia sẻ quyền lực
nên dễ khiến nền dân chủ non trẻ sụp đổ.
Cần
hiểu rằng khi một quốc gia đang quá độ từ nền độc tài sang dân chủ, sẽ có rất
nhiều các nhóm trong xã hội muốn có tiếng nói và đại diện trong hệ thống chính
trị, đặc biệt là những nhóm yếu thế trong thời kỳ độc tài trước đây. Một mô
hình cho phép nhiều nhóm cùng có mặt ở nhánh lập pháp (quốc hội/nghị viện) và
cùng tham gia hành pháp (chính phủ) có thể tạo tiền đề vững chắc cho một nền
dân chủ non trẻ.
Thứ
hai, vì tổng thống thường có nhiệm kỳ cố định và không dựa vào nghị viện để nắm
quyền nên rất khó để loại bỏ một tổng thống không được lòng dân. Thay vào đó, để
loại một tổng thống, cần đến quá trình luận tội (impeachment). [4] Ví dụ, ở Mỹ,
để cách chức một tổng thống, đầu tiên Hạ viện phải mở một cuộc điều tra luận tội
tổng thống, cáo buộc tổng thống phạm phải những tội nghiêm trọng do hiến pháp
quy định. Sau đó, Thượng viện sẽ tổ chức một phiên tòa luận tội để kết tội tổng
thống. Tổng thống sẽ bị kết tội và phải từ chức nếu Thượng viện có 2/3 số phiếu
đồng ý. [5]
Tuy
nhiên, cuộc điều tra luận tội rất dễ bị sử dụng như một trò chơi phe phái giữa
các đảng trong quốc hội. [6] Theo Linz, việc thay đổi tổng thống qua quá trình
luận tội thường gây ra khủng hoảng cho cả hệ thống chính trị.
Ngược
lại, vì thủ tướng được bầu ra từ nghị viện nên phải chịu trách nhiệm trước nghị
viện. Nếu thủ tướng không được ưa chuộng, nghị viện có thể kêu gọi một cuộc bỏ
phiếu bất tín nhiệm (vote of no confidence) để loại bỏ thủ tướng và thành lập
chính phủ mới. Điều này có nghĩa là thủ tướng có thể bị loại bỏ bởi chính những
thành viên trong đảng của mình nếu mất uy tín. Do đó, nó cho phép việc thay đổi
chính phủ liên tục trong hệ thống chính thể đại nghị mà không làm cả hệ thống
chính trị khủng hoảng. Nhật và Ý là hai quốc gia thay đổi thủ tướng và chính phủ
liên tục, nhưng vẫn là các quốc gia dân chủ mạnh mẽ. [7]
Thứ
ba, tổng thống có thể là người hoàn toàn không có kinh nghiệm chính trị, trong
khi thủ tướng bắt buộc phải trải qua nhiều năm chinh chiến trong chính trị.
Trong chế độ tổng thống, người dân đi bầu trực tiếp tổng thống nên bất cứ ai có
đủ tiềm lực tài chính và có sức lôi cuốn quần chúng, ngay cả khi chưa từng giữ
một chức vụ chính trị nào (như Donald Trump) cũng có thể trúng cử. Ngược lại,
vì là người người lãnh đạo của đảng có nhiều ghế nhất ở nghị viện (hoặc đảng
liên minh) nên thủ tướng thường phải có hàng chục năm kinh nghiệm trên chính
trường.
Trong
giai đoạn mới chuyển sang dân chủ, các vấn đề kinh tế, môi trường và quản trị tồn
đọng từ giai đoạn độc tài sẽ không thể được giải quyết triệt để ngay. Người
dân, vốn chưa hiểu nhiều về dân chủ, có thể dễ bị thu hút bởi một nhà lãnh đạo
ngoại đạo có xu hướng độc tài nhưng có khả năng kết nối với quần chúng.
Một
nhà lãnh đạo ngoại đạo không hẳn là xấu nhưng lịch sử cho thấy rất nhiều các thể
chế dân chủ bị suy yếu bởi các nhà dân túy ngoại đạo (populist outsiders). [8]
Các nhà độc tài khét tiếng như Adolf Hitler (Đức), Benito Mussolini (Ý), hay
Hugo Chávez (Venezuela) đều là những nhà dân túy ngoại đạo, được dân bầu lên
qua các cuộc bầu cử dân chủ tự do.
Riêng
ở châu Mỹ Latin nơi chính thể cộng hòa tổng thống được nhiều quốc gia áp dụng,
trong số 15 vị tổng thống được dân bầu lên ở Bolivia, Ecuador, Peru và
Venezuela trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2012 thì có đến năm người
là nhà dân túy ngoại đạo. Cả năm vị tổng thống này đều dần dần củng cố quyền lực
và làm suy yếu nền dân chủ. [9]
Thứ
tư, chế độ chính thể cộng hòa tổng thống có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa
nhánh hành pháp (quốc hội) và lập pháp (chính phủ). Người dân bầu tổng thống và
người đại diện trong quốc hội riêng lẻ.
Juan
Linz lập luận rằng điểm bất lợi lớn nhất của sự phân chia này là rất khó để chỉ
rõ ai và nhánh nào phải chịu trách nhiệm nếu một chính sách thất bại hoặc một
cuộc khủng hoảng xảy ra. Người dân có thể quy trách nhiệm vào người đại diện
trong quốc hội hoặc tổng thống. Điều này khiến cuộc chiến đổ lỗi giữa hai
nhánh, giữa các đảng phái và giữa các chính trị gia trở nên gay gắt. Cuối cùng,
không ai phải chịu trách nhiệm cuối cùng.
Ngược
lại, trong chính thể cộng hòa đại nghị, ai cũng biết rằng, thủ tướng là người
lãnh đạo chính phủ và quốc hội. Khi có những khủng hoảng chính sách xảy ra, người
dân có thể chỉ đích danh thủ tướng. Chính vì vậy, rất nhiều thủ tướng không vượt
qua được cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm và phải từ chức khi một chính sách thất bại.
Hay
mô hình độc tài trong quá khứ?
Lập
luận và bằng chứng của Juan Linz tuy khá thuyết phục, nhưng tất nhiên không phải
ai cũng đồng ý với những luận điểm trên của ông. Người phản đối Linz mạnh mẽ nhất
là hai nhà khoa học chính trị Scott Mainwaring (giáo sư tại Đại học Notre Dame,
Mỹ) và Matthew Shugart (giáo sư tại Đại học California, Davis, Mỹ). Trong một
bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Comparative Politics vào năm 1997, Mainwaring
và Shugart chỉ ra hai lỗi lớn nhất trong lập luận và bằng chứng của Linz. [10]
Thứ
nhất, trên thế giới, mô hình chính thể đại nghị thường được áp dụng ở các nước
châu Âu, trong khi mô hình chính thể cộng hòa tổng thống thường được áp dụng ở
các nước Mỹ Latin và châu Phi. [11] Juan Linz nhìn vào các nước châu Âu nơi có
nền dân chủ ổn định và các nước châu Mỹ Latin và châu Phi nơi chính trị luôn bất
ổn để chứng minh rằng chính thể đại nghị bảo vệ dân chủ tốt hơn chính thể cộng
hòa tổng thống. Tuy nhiên, châu Âu có nền dân chủ bền vững hơn châu Mỹ Latin và
châu Phi có thể là vì nhiều lý do khác.
Cụ
thể, theo Mainwaring và Shugart, các nước châu Âu có nền kinh tế phát triển hơn
các nước Mỹ Latin và châu Phi. Một nước có nền kinh tế phát triển thường cũng
có chỉ số dân chủ cao hơn. Chính thể cộng hòa đại nghị cũng thường thấy ở những
nước có diện tích địa lý và dân số nhỏ. Xây dựng một nền dân chủ ở các nước nhỏ
cũng dễ dàng hơn.
Cũng
là người ủng hộ chính thể đại nghị như Mainwaring và Shugart, học giả José
Antonio Cheibub (Giáo sư tại Đại học Texas A&M, Mỹ) trong cuốn sách nổi tiếng
“Presidentialism, Parliamentarism, and Democracy” xuất bản năm 2007, còn chỉ ra
một yếu tố cực kỳ quan trọng ở nhiều nước Mỹ Latin - nơi chính thể cộng hòa tổng
thống được ưa chuộng, đó là phần lớn các nước dân chủ Mỹ Latin theo chế độ cộng
hòa tổng thống trước đó đều từng là chế độ độc tài quân sự. Trong khi đó, các
nước có chính thể cộng hòa đại nghị thường từng trải qua độc tài dân sự. [12] Bằng
chứng cho thấy, các nước dân chủ từng từng bị cai trị bởi các nhà quân sự thì dễ
sụp đổ hơn. [13]
Có
thể, chính các yếu tố như kinh tế, diện tích quốc gia, lịch sử thuộc địa và mô
hình độc tài trong quá khứ, chứ không phải là mô hình của cơ quan hành pháp, mới
là nguyên nhân thật sự giải thích liệu một nền dân chủ có đứng vững được hay
không. [14] Hay nói như lời của Antonio Cheibub, chính thể cộng hòa tổng thống
(tình cờ) tồn tại ở các quốc gia có các điều kiện sẵn có thì không phù hợp cho
một nền dân chủ.
Mainwaring
và Shugart còn cho rằng, liệu mô hình cộng hòa đại nghị có tạo điều kiện cho
các đảng chính trị chia sẻ quyền lực hay không còn phụ thuộc vào việc quốc gia
đó có bao nhiêu đảng chính trị có thể nắm quyền. Nếu một quốc gia theo mô hình
đại nghị chỉ có khoảng hai đảng chính, thủ tướng cũng không có động lực để thỏa
hiệp và chia sẻ quyền lực. Trong trường hợp này, thủ tướng dễ dàng củng cố quyền
lực hơn tổng thống nếu có thể chặt chẽ kiểm soát quyền lực trong đảng của mình.
Khi chiếm đa số ghế trong nghị viện, một đảng có thể kiểm soát toàn bộ cơ quan
hành pháp và lập pháp trong một khoảng thời gian kéo dài, như thường thấy ở
Anh. [15]
----------------------
Chú
thích
[1]
Xem: https://www.bbc.com/vietnamese/blogs/2013/08/130821_doanxuanloc_arab_spring
[2]
Linz, Juan J. "The perils of presidentialism." Journal of democracy
1, no. 1 (1990): 51-69; Linz, Juan J. "Presidents vs. parliaments: The
virtues of parliamentarism." Journal of Democracy 1, no. 4 (1990): 84-91.
[3]
Các nước chính thể đại nghị thường dùng phương pháp tỷ lệ (proportional
representation) để chuyển hóa số phiếu bầu của cử tri thành số ghế trong nghị
viện, ngoại trừ Anh. Phương pháp tỷ lệ thường dẫn đến sự hình thành nhiều đảng
chính trị.
[4]
Xem: https://www.luatkhoa.com/2019/12/hoc-tieng-anh-qua-thu-tuc-luan-toi-tong-thong-my/
[6]
Xem: https://www.nytimes.com/2024/02/01/us/politics/impeachments-weapon-partisan-warfare.html
[7]
Tất nhiên, thay đổi chính phủ thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến việc quá trình thực
thi luật và chính sách bị gián đoạn. Tuy nhiên, việc này không gây sốc cho cả hệ
thống chính trị.
[8]
Levitsky, Steven, and Daniel Ziblatt. How democracies die. Crown, 2019.
[9]
Levitsky, Steven, and Daniel Ziblatt. How democracies die. Crown, 2019.
[10]
Mainwaring, Scott, and Matthew S. Shugart. "Juan Linz, presidentialism,
and democracy: a critical appraisal." Comparative Politics (1997):
449-471.
[11]
Điều này có thể do lịch sử và địa chính trị. Các nước châu Âu thường chịu ảnh
hưởng của Anh. Trong khi Mỹ có nhiều ảnh hưởng đến châu Mỹ Latin (trong thời kỳ
chiến tranh lạnh) và châu Phi (đặc biệt là sau thời kỳ chiến tranh lạnh).
[12]
Cheibub, José Antonio. Presidentialism, parliamentarism, and democracy.
Cambridge University Press, 2007.
[13]
Khi một chế độ độc tài quân sự sụp đổ và chuyển sang dân sự, quân đội thường vẫn
đóng một vài trò quan trọng ngay cả khi nhà nước được điều hành bởi một chính
phủ dân sự. Myanmar là một ví dụ điển hình. Năm 2015 đánh dấu bước ngoặt chuyển
sang dân chủ của Myanmar khi cuộc bầu cử tự do đầu tiên được tiến hành với sự
chiến thắng và nắm quyền của một chính phủ dân sự do đảng Liên đoàn Quốc gia vì
dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo. Nhưng vì theo hiến pháp quân đội
Myanmar có 25% số ghế trong quốc hội nên quân đội vẫn giữ một vài trò quan trọng
trong chính trị. Quân đội đã thực hiện một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân
sự do dân bầu vào năm 2021.
[14]
Mainwaring, Scott, and Matthew S. Shugart. "Juan Linz, presidentialism,
and democracy: a critical appraisal." Comparative Politics (1997):
449-471.
[15]
Nước Anh là nước chính thể đại nghị hiếm hoi sử dụng hệ thống bầu cử đa số
tương đối mà ở đó mỗi cử tri chỉ được bầu cho một ứng viên, và người thắng cử
là người nhận được nhiều phiếu bầu nhất, ngay cả khi số phiếu đó nhỏ hơn đa số
tuyệt đối (50%). Hệ thống này thường dẫn đến sự hình thành của hai đảng chính
trị chính (như ở Mỹ).
No comments:
Post a Comment