Tình
trạng “tạm lắng" của các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam và triển vọng?
Quốc Phương, cộng tác viên RFA Tiếng Việt từ London
2023.05.09
Trong ít nhất
hơn ba thập niên gần đây, các tổ chức thuộc xã hội dân sự ở Việt Nam được nhận
định đã có những lúc phát triển khá mạnh mẽ và đa dạng. Tuy vậy hiện nay, khu vực
này bị cho “trầm lắng”.
Bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc tổ
chức GreenID nhận giải thưởng môi trường Goldman năm 2018, bà sau đó bị
đi tù vì bị cáo buộc "trốn thuế" đối với giải thưởng này (Goldman Environmental Prize)
RFA
có cuộc trao đổi với ông Trần Tiến Đức-
nguyên Vụ trưởng vụ Truyền thông, Ủy ban Dân số & Kế hoạch hóa Gia đình
(thuộc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trước đây), ông là nhà quan sát xã hội dân
sự, từng là chuyên gia hoạch định chiến lược, chính sách quốc gia của Việt Nam
trong lĩnh vực truyền thông dân số, truyền thông phát triển, cựu Giám đốc dự án
Policy do USAID tài trợ chuyên về vận động chính sách và thúc đẩy tiếp cận trên
cơ sở quyền và tăng quyền cho người có HIV tại Việt Nam, cựu đại diện của The
Futures Việt Nam, thuộc The Futures Group toàn cầu, chuyên về nghiên cứu chiến
lược, nghiên cứu chính sách và vận động chính sách, trong đó có tư vấn chiến lược
trong lĩnh vực dân số & kế hoạch hóa gia đình, giới, sức khỏe sinh sản v.v…
Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Kế hoạch hóa Gia đình Việt Nam (1993-1998)
và cố vấn của Ủy ban các Vấn đề Xã hội thuộc Quốc hội Việt Nam các khóa
trước đây.
Trước hết trả lời câu hỏi
liệu có phải ở Việt Nam hiện đang có ít nhất hai loại hình tổ chức “xã hội dân
sự” mà sự phân biệt dựa trên tính độc lập với chính quyền hay không, ông nói:
Ông Trần Tiến Đức: Câu hỏi đề ra rất lý thú, nhưng nếu chúng ta cứ căn cứ vào định
nghĩa của xã hội dân sự, thì hiện nay “xã hội dân sự” mà được nhà nước cho phép
hoạt động, thì thực ra nó chưa đáp ứng đầy đủ các đặc tính của xã hội dân sự.
Có hai đặc tính cơ bản của xã hội dân sự, trước hết nó là hoạt động tình nguyện,
và thứ hai là sự độc lập đối với các cơ quan quyền lực nhà nước. Đấy là hai vấn
đề rất quan trọng và câu hỏi được nêu về cái gọi là “tổ chức xã hội dân sự” mà
được nhà nước công nhận và cho phép hoạt động thì phần lớn không độc lập với
quyền lực của nhà nước. Họ hoạt động trong khuôn khổ những tổ chức đã được nhà
nước chính thức cho phép hoạt động.
Ở Việt Nam, những tổ chức chính thức này gồm những hội
đoàn như là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ VN, Hội nông dân Việt
Nam, rồi Hội cựu chiến binh, rồi Tổng Liên đoàn Lao động VN v.v… và một tổ chức
mà hiện nay đang quy tụ những tổ chức phi chính phủ, nhưng chưa hoàn toàn là xã
hội dân sự, là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Vusta), Liên hiệp hội
này được thành lập và được quản lý bởi nhà nước, các cán bộ ở đấy ăn lương từ
ngân sách của nhà nước, và họ cũng hưởng những tiêu chuẩn như cán bộ nhà nước;
chẳng hạn, ông Chủ tịch Liên hiệp hội cũng có xe (công) đủ các thứ, rồi hưởng
lương bổng v.v…. Như vậy, tôi nghĩ rằng chưa thể coi những tổ chức ấy là tổ chức
xã hội dân sự.
Ông
Trần Tiến Đức phát biểu tại một Hội thảo khu vực châu Á và Thái Bình Dương hồi
năm 3/2016 tại Hà Nội về sức khỏe tính dục (Sexuality health), mà ông thành
viên của Ban Tổ Chức. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Nếu xét về lịch sử tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam,
thì trước năm 1945, ngay ở thời còn chính quyền thuộc địa của thực dân Pháp,
cũng đã có những tổ chức dân sự đã hoạt động, tôi lấy thí dụ như là Hướng đạo
sinh, họ được sự cho phép của chính quyền, nhưng hoàn toàn hoạt động không phụ
thuộc vào chính quyền thuộc địa, không phụ thuộc vào chính quyền của Nam triều,
tức là triều đình nhà Nguyễn, và họ tự chủ hoàn toàn về mặt tài chính, và họ
làm những hoạt động thiện nguyện, trong đó có cả những vận động chính trị. Và
còn nhiều tổ chức khác mà tôi còn nhớ, chẳng hạn hồi năm 1935, như thân phụ
tôi, Bác sỹ Trần Duy Hưng, lúc đó còn là sinh viên đang học trường Y, đã cùng một
nhóm kiến trúc sư và một nhóm các trí thức khác lập ra một hội lấy tên là “Hội
ánh sáng”, nhằm thiết kế, quy hoạch lại nông thôn Việt Nam, tạo nên những ngôi
nhà phù hợp với nông thôn VN, nhưng sáng sủa hơn, vệ sinh hơn, thì đấy là tổ chức
xã hội dân sự, chứ còn gì nữa? Họ hoàn toàn hoạt động độc lập…
Nhưng sau này, nhất là từ sau năm 1950, khi có ảnh
hưởng của tư tưởng Mao Trạch Đông và của các cố vấn Trung Quốc đối với đường lối
và tôn chỉ hoạt động của đảng Lao động Việt Nam, thì các tổ chức dân sự dần dần
không có chỗ đứng; và đến năm 1954, sau khi Việt Nam chia cắt ra hai miền thành
miền Bắc và miền Nam, thì tổ chức như Hướng đạo sinh không được cho hoạt động ở
miền Bắc, vì họ lấy lý do rằng đã có Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam rồi, thì
cần gì có Hướng đạo sinh nữa, tôi lấy đó là một ví dụ, còn ở miền Nam Việt Nam,
tôi xin nói là vẫn có các tổ chức dân sự hoạt động. Thế nhưng đến năm 1975 và tới
năm 1986, thì hầu như không có tổ chức nào hoạt động nữa, ngoài những tổ chức
được nhà nước công nhận.
Nhưng sau năm 1986, rất nhiều tổ chức, nhất là những
tổ chức về mặt nghiên cứu về những vấn đề xã hội, kinh tế của đất nước được
thành lập và sau đó được cho vào trong một “cái rọ” chung, là Liên hiệp các Hội
Khoa học và kỹ thuật, cho nên những năm sau đó, đặc biệt sau những năm 1990, có
thêm nhiều tổ chức hoạt động mà đúng là tổ chức xã hội dân sự thực sự, và tôi
là người đã tham gia vào việc xây dựng những tổ chức cộng đồng đầu tiên của những
người sống chung với HIV, những người làm nghề lao động tình dục, những người sử
dụng ma túy, những người bị đặt bên lề xã hội… Chúng tôi thấy rằng muốn thắng
được HIV, phải dựa vào những người bị ảnh hưởng bởi HIV, và phải cho họ có tiếng
nói, để họ có ý kiến về điều trị, tiếp cận thuốc, đó là những vấn đề mà cuối
cùng liên quan chính sách phải thay đổi, tôi nghĩ rằng chính những hoạt động xã
hội dân sự liên quan HIV đã tạo nên những mầm mống cho các tổ chức xã hội dân sự
thực sự và trong một cuộc làm việc với một quan chức trưởng đại diện tổ chức quốc
tế PEPFAR, có liên quan lĩnh vực dự án này ở khu vực, khi tôi làm việc cho dự
án Policy của USAID, thì không những vấn đề tăng cường tiếp cận với thuốc, tăng
cường việc điều trị, mà căn bản nhất là trao quyền lực tạo sức mạnh cho nhóm những
người yếu thế, và tôi nghĩ đấy là cách thức mà chúng tôi muốn thúc đẩy nền dân
chủ, thúc đẩy xã hội dân sự ở Việt Nam.
Một
buổi tọa đàm khoa học Vùng biển bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế tổ chức năm
2019 với các nhân sĩ, trí thức trong nước. Ảnh: FB Hoàng Ngọc Giao
Tình trạng xã hội dân sự ở Việt Nam thế nào?
RFA: Tình trạng các tổ chức xã hội dân dự, các tổ chức cộng đồng, các
tổ chức cơ sở và nhiều tổ chức cùng vai trò, chức năng nhưng với dạng thức
khác, ra sao gần đây và hiện nay theo quan sát của ông?
Ông Trần Tiến Đức: Những năm gần đây, đặc biệt sau dịch Covid-19, khi các nguồn lực
của các tổ chức quốc tế hoạt động trong các lĩnh vực xã hội, trong đó có y tế,
giảm sút đi nhiều, cho nên nguồn lực để cho các tổ chức cộng đồng, các tổ chức
xã hội dân sự bị thu hẹp rất nhiều… Còn trong những năm về trước, đầu tiên là
các tổ chức cộng đồng, sau đó tới những tổ chức làm việc về những vấn đề như vận
động chính sách, hoặc phản biện chính sách như Viện Phát triển Xã hội (IDS) của
Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A và cố Giáo sư Hoàng Tụy, và một số người nữa,
hoạt động rất hiệu quả. Trên cơ sở nghiên cứu, họ chứng minh được những gì
trong chính sách cần phải thay đổi, kể cả vấn đề quản lý kinh tế.
Nhưng sau đó, vì một quan niệm của chính quyền Việt
Nam, mà đã được chính thức hóa trong văn kiện của một Đại hội đảng CSVN, mà lúc
đầu có một dự thảo văn kiện theo tôi được biết có nhắc đến từ “xã hội dân sự”,
nhưng sau đó bị gạch đi, và người ta không
còn cho phép dùng từ “xã hội dân sự” nữa, mà chỉ cho phép dùng từ “các tổ
chức xã hội”, mà các “tổ chức xã hội” thì chưa hoàn toàn là xã hội dân sự, vì
theo cách hiểu của dự thảo này, thì các tổ chức đó vẫn phải chịu sự kiểm soát rất
chặt chẽ của nhà nước, và chính do đó những tổ chức như IDS, trước những quy định
chặt chẽ như vậy, thấy rằng không thể hoạt động được, họ buộc phải tuyên bố tự
giải thể. Bởi vì thí dụ… tất cả những phản biện chính sách phải được nhà nước
kiểm soát trước, kiểm duyệt trước, rồi mới được đưa lên phản biện, tôi nghĩ đấy
không còn là phản biện chính sách nữa, mà chỉ là những ý kiến ủng hộ mà thôi,
còn ủng hộ thì đã có rất nhiều ý kiến rồi.
Trong khi nhà nước phải nghe những ý kiến phản biện
có cơ sở khoa học chân chính, trên các cơ quan ngôn luận của nhà nước và đảng
CSVN, người ta coi xã hội dân sự là một công cụ để làm các cuộc chuyển đổi
không bạo lực, và như vậy tạo nên “diễn biến hòa bình” và họ nghĩ rằng những cuộc
Cách mạng Nhung, hoặc những thay đổi ở Ba Lan, ở Đông Âu, ở Liên Xô trước kia,
là bởi vì những hoạt động của xã hội dân sự mà họ nói rằng đã “ăn tiền” của các
thế lực thù địch, của các thế lực đế quốc.
Và gần đây nhất, những người như là ông Hoàng Ngọc
Giao, là một nhà phản biện mà Viện nghiên cứu của ông cũng là thành viên trong
Liên hiệp hội (Vusta), cũng được hoạt động chính thức, hay như trường hợp với
bà Ngụy Thị Khanh, cũng đứng đầu một Trung tâm hoạt động được đăng ký với
Vusta, và những ý kiến đó cũng là những ý kiến phản biện, nhưng người ta cho rằng
“không phù hợp” với những quy định nào đó, những định hướng chính sách của họ,
nên họ thậm chí đầu tiên buộc tội là “trốn thuế”, sau đó mới đến buộc tội “lợi
dụng quyền tự do dân chủ” để mà “chống lại đất nước”, những cái đó làm ảnh hưởng
rất nhiều đến sự hình thành và phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam.
Như vậy, như tôi đã nói, những tổ chức xã hội dân sự,
khi vượt ra ngoài những khuôn khổ, những vấn đề mà chính quyền cho phép hoạt động,
thí dụ chúng tôi từng hoạt động trong lĩnh vực phòng chống HIV, hay là chống lạm
dụng ma túy v.v…, hoặc là giúp cho những người lao động tình dục có thể tìm cách
sống rất đàng hoàng, mà những cái đó ít nhiều chưa đụng chạm những vấn đề liên
quan thể chế, nhưng một khi những phản biện mang tính chất vận động chính sách,
liên quan vấn đề thể chế, tôi chưa nói đến chế độ mà chỉ nói đến thể chế thôi,
thì người ta thấy rằng đó là chuyện không thể chấp nhận được, chính vì thế mà tôi nói thẳng là người ta không muốn cho những tổ chức xã
hội dân sự phát triển. Và trong môi trường, trong điều kiện ấy, các tổ chức
xã hội dân sự không thể nào phát triển được và những tổ chức mới rất khó thành
lập…
Tiến
sỹ Hoàng Ngọc Giao trong ảnh chụp năm 2018 khi ông nhận quyết định nghỉ hưu
tại Trường ĐH Kinh tế Đà Nẵng, Khoa Luật. Ảnh: FB Hoàng Ngọc Giao
RFA: Với các tổ chức thuộc lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng, rồi nghiệp
đoàn độc lập, thì ông có bình luận gì?
Ông Trần Tiến Đức: Về tổ chức tôn giáo, tôi nghĩ đây cũng là một dạng khá đặc biệt,
nhưng rõ ràng ở các tổ chức tôn giáo vẫn hoạt động khá độc lập ở Việt Nam, nhất
là với Thiên Chúa giáo. Phật giáo, thì nhiều tổ chức tôi nghĩ rằng còn bị nhà
nước chi phối rất nhiều, tôi không dám nói hoàn toàn là của nhà nước, nhưng mà
bị nhà nước chi phối rất nhiều và được nhà nước ủng hộ, cho nên tính độc lập và
tính phản biện của họ không cao, tôi xin nói như vậy. Còn phía của bên Thiên
Chúa giáo, hay đạo Tin lành, thì tất cả những tôn giáo đó, một mặt họ có cơ cấu
truyền thống, thí dụ đặc biệt với Thiên Chúa giáo, họ được đào tạo các thầy
dòng, các linh mục hoàn toàn theo thể chế độc lập và họ nhận được sự giúp đỡ của
Giáo hội La Mã, nên họ có nhiều điều kiện kinh tế, và họ cũng biết huy động
dân, giáo dân rất ủng hộ họ, cho nên việc họ xây dựng những nhà thờ là hoàn
toàn do giáo dân. Và tôi biết những ông linh mục gần như sống với dân. Thí dụ
tôi đã về Nhà thờ Phát Diệm và gặp các vị linh mục ở đấy và họ cũng thử nghiệm
những giống lúa mới và sau đó phổ biến cho người dân, do đó khi họ cần sửa chữa
gì với nhà thờ, thì họ đều được người dân ủng hộ.
Còn có những vị linh mục mà tôi biết rằng họ là Đại
biểu Quốc hội, như tôi đã đến một nhà thờ đó ở Hải Hậu, người dân kể rằng mỗi
năm, khi các cháu học sinh tốt nghiệp phổ thông, vị linh mục đó đều mời các
cháu và gia đình đến nhà thờ dự một bữa cơm và nhà thờ chúc mừng. Sau đó, mỗi lần
vị linh mục đó lên Hà Nội họp, đều mời các cháu đến để nghe ngóng về tình hình
học tập và cũng cho một chút quả nhỏ, để các cháu hiểu được mối liên hệ giữa
Nhà thờ, giữa quê hương với các cháu, và tôi đã nói với một số ông Đại biểu Quốc
hội ở các địa phương đi về Hà Nội họp, rằng: “Các ông nên học vị Linh mục đó,
vì cái đó mới thấy được rằng các vị thực sự quan tâm đến người dân như thế
nào!”
Còn với những nghiệp đoàn độc lập, họ hoạt động độc
lập xuất phát từ nhu cầu của những người lao động, những nhu cầu đó thực sự có
thật. Người lao động cần được bảo vệ về mọi khía cạnh trước giới chủ như về thu
nhập, về lương bổng, về giờ, điều kiện làm việc, đó là những điều rất bức thiết
với cuộc sống của họ. Chúng ta đều biết ở rất nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài hiện nay, công nhân, để đảm bảo thu nhập, họ phải xin
trong nháy nháy là “tự nguyện” làm thêm, tức là một ngày thêm bốn tiếng đồng hồ,
có khi nhiều hơn thế nữa, cho nên sức lao động của họ bị bóc lột kiệt quệ.
Chúng tôi cũng đã làm việc nhiều với những lao động nhập cư đến, chúng tôi thấy
rằng họ hoàn toàn không được hưởng quyền lợi nào về mặt bảo hiểm xã hội, về mặt
y tế, những chăm sóc y tế, rồi vấn đề con cái trong gửi trẻ thôi, chứ chưa nói
là đi học, rồi vấn đề nhà… ở có rất nhiều bức xúc. Cho nên có những tình trạng
rất đáng thương, như là có những chị em làm ở các khu công nghiệp, thì ngoài giờ,
lại phải ra đi “đứng đường”, để mà kiếm thêm. Thực là những cái đó rất đau khổ,
mà chúng tôi đã từng làm những nghiên cứu về các vấn đề đó. Thì rõ ràng phải có
công đoàn độc lập và tôi đồng ý hoàn toàn rằng lúc đầu những người làm công
đoàn độc lập có thể chưa biết nhiều, nhưng họ sẽ học tập và có những người sẽ
trở thành những thủ lĩnh công đoàn thực thụ… Và tôi nghĩ rằng những ai đã dấn
thân vào những hoạt động cho những người cùng cảnh ngộ với mình, tức là những
người công nhân, thì tôi chắc là với sự dấn thân ấy, họ sẽ trưởng thành và họ sẽ
có thể đóng góp được nhiều hơn cho những người cùng cảnh ngộ…
.
RFA: Mặc dù bối cảnh hiện nay có thể có những khó khăn, tạm thời gọi là
thăng trầm như một số ý kiến nói, nhìn vào triển vọng tương lai của xã hội dân
sự, trong đó có các tổ chức hội, đoàn độc lập, nếu có thể có một khuyến nghị
hay thông điệp gì với nhà nước, với chính quyền Việt Nam hiện nay và với cả giới
hoạt động xã hội dân sự, cùng những ai quan tâm lĩnh vực này ở Việt Nam, ông sẽ
nói gì?
Ông Trần Tiến Đức: Tôi vẫn muốn khẳng định rằng sự tồn tại của xã hội dân sự là một
chỉ dấu của một xã hội văn minh, dân chủ, của một thể chế dân chủ mà tin vào
dân, dựa vào dân và thể hiện được ý chí của dân. Và những tổ chức xã hội dân sự
nào mà không làm được điều đó, thì sớm muộn cũng sẽ bị đào thải, cho nên đã làm
tổ chức xã hội dân sự là phải tâm niệm điều đó. Thứ hai là những người làm xã hội
dân sự phải là những người dấn thân. Tôi đã từng nói rằng như các vị lãnh đạo Đảng
Cộng sản thời kỳ còn chưa “cướp được chính quyền” thì đúng là những người dấn
thân, những người đã dám từ bỏ những con đường rất sán lạn, thí dụ như ông Phạm
Văn Đồng, ông Trường Chinh toàn là con nhà quan, học hành đầy đủ, nhưng dám từ
bỏ những con đường có thể rải đầy hoa hồng để dấn thân vào con đường chông gai,
dám đi tù, nhưng mà vì lý tưởng của họ. Nên tôi nghĩ rằng những người làm xã hội
dân sự ngày nay cũng phải thế, cũng phải biết dấn thân, đừng có nghĩ rằng làm
xã hội dân sự là có được thu nhập gì hay có được cái gì lớn.
Còn về vấn đề luật liên quan các hội đoàn và xã hội
dân sự, tôi khẳng định rằng cần làm càng sớm càng tốt, vì nó sẽ đảm bảo đem lại
lợi ích cho cả hai phía, nhà nước sẽ có cơ sở quản lý trên cơ sở luật pháp hoạt
động của các xã hội dân sự, và các tổ chức xã hội dân sự đồng thời sẽ có một
khung pháp lý để có thể tự tin để hoạt động, mà làm tròn trách nhiệm của mình đối
với người dân ở cộng đồng.
.
RFA: Xin trân trọng cảm ơn ông Trần Tiến Đức đã trả lời cuộc phỏng vấn
này.
.
Trên đây là phần đầu cuộc trao đổi của RFA Tiếng
Việt với ông Trần Tiến Đức nguyên là Vụ trưởng vụ Truyền thông, Ủy ban Dân số
& Kế hoạch hóa Gia đình, thuộc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trước đây, ông
là nhà quan sát xã hội dân sự, từng là chuyên gia hoạch định chiến lược, chính
sách quốc gia của Việt Nam trong lĩnh vực truyền thông dân số, truyền thông
phát triển, cựu Giám đốc dự án Policy do USAID tài trợ chuyên về vận động chính
sách và thúc đẩy tiếp cận trên cơ sở quyền và tăng quyền cho người có HIV tại
Việt Nam, cựu đại diện của The Futures Việt Nam, thuộc The Futures Group toàn cầu,
chuyên về nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu chính sách và vận động chính sách,
trong đó có tư vấn chiến lược trong lĩnh vực dân số & kế hoạch hóa gia
đình, giới, sức khỏe sinh sản v.v… Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Kế hoạch hóa
Gia đình Việt Nam (1993-1998) và cố vấn của Ủy ban các Vấn đề Xã hội thuộc Quốc
hội Việt Nam các khóa trước đây.
Ở phần sau của cuộc trao đổi với Đài Á châu Tự
do, ông Trần Tiến Đức đề cập cụ thể vấn đề vì sao cần ban hành luật về hội, về
các hội đoàn… tại Việt Nam, mời quý vị đón theo dõi.
No comments:
Post a Comment