Ba
lỗi thể chế huỷ hoại niềm tin vào chính sách đất đai Việt Nam
Võ Văn Quản - Luật
Khoa
08/09/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/09/ba-loi-the-che-huy-hoai-niem-tin-vao-chinh-sach-dat-dai-viet-nam/
Nếu chẳng may rơi vào ma trận quy hoạch đất đai của
chính quyền, người dân luôn bị đặt ở thế cùng đường.
***
Có những người sống cả đời
mình mà không gặp bất kỳ trục trặc gì về đất đai với chính quyền sở tại. Có những
người khác còn làm giàu được nhờ vào cấu trúc quản lý đất đai hiện hành. Nhưng
điều này không che đi được những bất bình đẳng về mặt thể chế trong các chính
sách đất đai.
Hiện nay, Việt Nam chưa
có thống kê chính thức về số lượng người bị ảnh hưởng do những cuộc di dời, cưỡng
chế dự án và các vấn đề liên quan đến đất đai khác, nhưng tỉ lệ này ở Việt Nam
có thể khá tương đồng với Campuchia hay Trung Quốc.
Ở Campuchia, có khoảng
850.000 người Cambodia (tương đương 6,5% dân số) chịu ảnh hưởng do các xung đột
đất đai trong năm 2005, theo nghiên
cứu của Tiến sĩ Babette Wehrmann, một chuyên gia về chính sách đất đai
của Đức. Còn ở Trung Quốc, theo nghiên
cứu của Giáo sư Eva Pils thuộc King’s College London, có khoảng 44 triệu
người (tương đương 4-5% dân số) chịu tác động trực tiếp từ các hoạt động cưỡng
chế đất đai cùng giai đoạn này.
Nếu xem tỉ lệ ở Việt Nam
cùng ở mức 5% thì số người chịu ảnh hưởng của cưỡng chế, thu hồi đất ở nước ta
sẽ lên đến khoảng 5 triệu người một năm. Có một sự bất tín nhiệm không thể chối
cãi của một lượng lớn quốc dân trong cách chính quyền hành xử và giải quyết các
tranh chấp công liên quan đến đất đai.
Dưới đây là ba lý do thể
chế khiến niềm tin của khối dân cư buộc phải tiếp xúc với chủ trương đất đai của
chính quyền Việt Nam luôn ở tình trạng rất thấp.
1. Lời nói dối về
một “tương lai tươi sáng”
Nghiên
cứu tình huống về tranh chấp đất đai trong lĩnh vực công ở Việt Nam
(do Asian Foundation và Bộ Ngoại vụ và Công thương Australia hợp tác sản xuất)
phát hiện một khoảng cách giữa người dân và chính quyền trong truyền thông về đất
đai. Nghiên cứu thực hiện năm 2014 này cho thấy rõ độ vênh giữa những lời hứa của
chính quyền, kỳ vọng của người dân khi được vận động di dời; và thực tế quyền lợi
chính đáng của họ được bảo vệ ra sao sau khi di dời.
Hai tình huống được phân
tích và nhắc đến trong nghiên cứu này để làm rõ vấn đề nói trên là dự án Thủy
điện Sơn La và Khu Kinh tế Dung Quất.
Theo nhóm khảo sát, cả
hai dự án đều được bắt đầu khá trơn tru. Người dân sống tại hai khu vực chấp nhận
di dời mà không có bất kỳ khiếu nại chính thức nào. Đây đều là hai dự án trọng
điểm của chính quyền Việt Nam tại thời điểm đó, và người dân bị áp đặt phải là
có “nghĩa vụ đương nhiên” phải ủng hộ và tuân thủ chủ trương của nhà nước.
Không chỉ vậy, vì đều là
hai khu vực kém phát triển, số tiền đền bù được cho là tương đối lớn so với khả
năng sản xuất kinh tế của nhiều hộ dân trong nhiều năm liền. Việc hình thành
hai dự án tại khu vực cũng được cho là sẽ giúp giải quyết một số vấn đề về việc
làm và mức sống cho người dân địa phương.
Tuy nhiên ngay sau khi việc
di dời được thực hiện xong, chính quyền quay lại thái độ không đối thoại, không
quan tâm đến đời sống của người buộc phải tái định cư. Điều kiện sống tại các
khu tái định cư được khảo sát là nghèo nàn (ở Dung Quất), và thậm chí là không
phù hợp (ở Sơn La).
Để có thể xây dựng
công trình thuỷ điện Sơn La, gần 60.000 người dân đã phải di dời. Ảnh:
VnExpress.
Các nhóm cán bộ vận động
từng hết sức đon đả và niềm nở ban đầu trở lại với thái độ quan liêu thường thấy
của họ. “Chờ chính sách ở trên”, “chúng tôi không chịu trách nhiệm cho vấn đề
này”… là những câu trả lời cửa miệng mà người dân luôn phải nghe khi họ có vấn
đề khúc mắc sau khi chấp nhận và thực hiện phương án đền bù.
Đây là tình trạng chung của
hầu hết các dự án lớn nhỏ liên quan đến đất đai. Những lời hứa hẹn và viễn cảnh
về một tương lai tươi sáng hơn đối với những người chịu ảnh hưởng bởi quy hoạch,
di dời dần trở thành vô nghĩa. Trong trường hợp đất đai là nguồn sống duy nhất
của họ , các hoạt động phản kháng có xu hướng bạo lực trước sự áp đặt của chính
quyền trung ương – địa phương là không thể tránh khỏi.
2. Đất biến thành
nguồn tích tụ tư bản cho giới thân hữu
Dù có được thuyết phục bằng
viễn cảnh về cơ hội việc làm hay phát triển đô thị, những người phải chịu cảnh
di dời không thể không nhận ra mình đã gần như bị lừa, khi nhìn thấy nguồn lợi
kếch xù mà các nhà đầu tư nhận được từ mảnh đất của họ.
Lấy ví dụ của khu đô thị
Phú Mỹ Hưng, giá
đất theo mét vuông từ thời điểm chi trả cho các hoạt động di đời, san
lấp mặt bằng (2004) cho đến lúc dự án bắt đầu thành hình (2009) tăng… 500 lần
(từ 26.000VND/m2 đến 13.200.000VND/m2).
Hiện nay, con số này đã
lên đến hàng trăm triệu đồng cho một mét vuông. Dùng bất kỳ lý giải nào về chi
phí đầu tư hạ tầng cũng không thể thuyết phục được rằng khoản lợi nhuận mà các
nhà thầu, các chủ đầu tư nhận được là hợp lý hay xứng đáng.
Không phải không có lý do
mà trong nhóm những cá nhân giàu
có nhất Việt Nam, hết ⅓ trong số đó là những người có liên quan đến
lĩnh vực bất động sản.
Ông Phạm Nhật Vượng,
Chủ tịch Tập đoàn Vingroup. Ảnh: Báo Thanh Tra.
Cùng lúc đó, sự can thiệp
quá… chủ động và tích cực của chính quyền địa phương lẫn trung ương vào quá
trình làm giàu của các doanh nghiệp liên quan đến dự án khiến cho sự nghi ngại
của người dân càng tăng lên.
Trong những cuộc xung đột
này, người dân không chỉ bị giới hạn về thông tin, tiếng nói. Họ còn chịu rủi
ro bị trừng phạt nếu có các hành vi chống đối chủ trương. Với tình hình luật
pháp hiện nay, chỉ việc phát biểu không thuận tai lãnh đạo địa phương cũng đã
có thể khiến người dân phải ngồi tù.
Mới đây, liên quan đến dự
án Quảng trường Biển do tập đoàn Sun Group đầu tư vào bãi biển Sầm Sơn (Thanh
Hóa), hai
người đã phải ngồi tù với tội danh “gây rối trật tự công cộng”. Lý do
là họ đã phát biểu trái ý tại một buổi họp có mặt của ông Mai Văn Liêm, Bí thư
Thành ủy Sầm Sơn.
Kinh doanh bất động sản,
từ đó, trở thành lĩnh vực siêu lợi nhuận mà chỉ những ông trùm tư bản thân hữu
mới có thể gia nhập ngành.
.
3. Hệ thống tư
pháp công bằng không tồn tại
Trong một hệ thống chính
quyền vận hành kém hiệu quả và có dấu hiệu lợi ích nhóm, thứ duy nhất có thể
giúp người dân giải tỏa các tranh chấp đất đai là kiện ra tòa. Tuy nhiên, đáng
tiếc rằng con đường này cũng không tồn tại.
Người viết hiển nhiên
không mặc định rằng cứ hễ người dân khởi kiện thì họ đúng, và chính quyền thì
lúc nào cũng làm sai. Nhưng có một thực tế là các cơ quan tư pháp Việt Nam hoặc
là không quan tâm, hoặc là bất lực trước sức mạnh của các cơ quan hành pháp.
Kể cả phán quyết chung thẩm
của tòa về tính hợp pháp của quyết định hành chính do cơ quan chính quyền các cấp
ban hành cũng không
có mấy tác dụng.
Theo một thống
kê chính thức năm 2017, sau khi nhận được phán quyết của tòa, đã có đến
85 vụ việc mà cơ quan nhà nước không chịu thi hành bản án,
trong vỏn vẹn trên dưới 300 vụ khởi kiện án hành chính trên cả nước. Trong đó,
có năm vụ liên quan đến quyết định, hành vi hành chính của Ủy ban Nhân dân, Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. Tỉ lệ từ chối thi hành như vậy là gần 1/3, tức
là cứ ba bản án được đưa ra thì sẽ có một bản án rơi vào quên lãng.
Đối với một số vụ
việc tại thành phố Hồ Chí Minh, các cơ quan đã viện dẫn nhiều lý do
không được ghi nhận trong luật để tự hoãn thi hành án. Nghiêm trọng
hơn, mới đây, cơ quan Kiểm lâm Tuyên Quang cũng có văn bản “chê” bản
án của Tòa án Cấp cao tại Hà Nội là xử sai luật và không chịu chấp hành.
Với thái độ “lồi lõm” của
chính cơ quan công quyền đối với hệ thống tư pháp như thế, không có gì ngạc
nhiên khi nhiều người dân cho rằng họ sẽ khó có thể được bảo vệ cả về mặt pháp
luật hay thực tiễn khi đi theo con đường khởi kiện.
Luật sư Ngô Ngọc Trai, một
người có nhiều năm kinh nghiệm trong tố tụng đất đai công cũng thừa nhận thực tế
đáng buồn nói trên. Theo ông, cơ quan quản lý địa phương từ trước đến nay đều
cho rằng tòa án là cơ quan yếu thế hơn, do đó, họ không cần thiết phải nghe
theo bản án hay hội ý với phía cơ quan tư pháp.
Ngoài ra, ngay cả khi vụ
việc được đưa ra trước tòa, các đảng viên choàng áo thụng trong tư cách thẩm
phán cũng không có lá gan nào để qua mặt ý kiến của bí thư hay các tổ chức đảng
cấp trên, vốn đều là những người đồng thuận và cho phép chủ trương đất đai bị
thách thức.
***
Những lời hứa hẹn viển
vông, quan hệ giữa chính quyền và các nhóm lợi ích bất động sản, và cuối cùng
là một hệ thống tư pháp què quặt khiến người dân luôn bị đặt vào đường cùng khi
họ chẳng may rơi vào vào “ma trận” quy hoạch của chính quyền. Niềm tin mất thì
đã đành, những cuộc đụng độ giữa người dân và chính quyền còn dẫn đến đau
thương mất mát về tính mạng và sức khỏe của cả hai bên. Cái giá của “phát triển”
tại Việt Nam thật sự quá đắt.
No comments:
Post a Comment