Việt
Nam trước cuộc song đấu Mỹ Trung (3)
https://usvietnam.uoregon.edu/viet-nam-truoc-cuoc-song-dau-my-trung-3/
.
(Thương chiến Mỹ
Trung qua minh họa của Financial
Times)
LTS: Tháng 5 năm
2020, chính phủ Hoa Kỳ công bố báo cáo “Tiếp cận chiến lược của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc” (“United
States strategic approach to the People’s republic of China”). Tiếp theo,
nhiều chính khách Hoa Kỳ liên tục có bài phát biểu dường như xác lập một cuộc
chiến tranh lạnh mới của Hoa Kỳ với Trung Quốc, như Robert C. O’Brien, Cố vấn
An ninh Quốc gia, phát biểu bài “The
Chinese Communist Party’s Ideology and Global Ambitions” , ngày 24
tháng 6, 2020, Christopher A. Wray, Giám đốc Cục Điều tra Liên bang, phát biểu
bài “The
Threat Posed by the Chinese Government and the Chinese Communist Party to the
Economic and National Security of the United States,” ngày 7 tháng 7,
2020. Ngoại trưởng Mike Pompeo có bài phát biểu “Communist
China and the Free World’s Future” tại Bảo tàng và Thư viện Tổng thống
Richard Nixon, như muốn đánh dấu bước ngoặt chính sách đối với China của Hoa Kỳ
được thiết lập từ thời Tổng thống Nixon năm 1972.
Việt Nam có xuất hiện đây đó trong các diễn ngôn
chính sách nói trên của Hoa Kỳ đối với China. Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ đại học
Oregon xin giới thiệu bài phỏng vấn nhanh với ông Vũ
Tường, Giáo sư Trưởng khoa Chính trị học Đại học Oregon, ông Nguyễn
Mạnh Hùng, Giáo sư huân công Đại học George Mason, Tiến sỹ Nguyễn
Quang A, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội ở Việt Nam, về quan hệ Việt Mỹ
Trung trong bối cảnh hiện nay.
Dưới
đây là bài phỏng vấn TS Nguyễn Quang A.
————-
Ngoại trưởng Pompeo kêu gọi đoàn kết chống lại chế độ
độc tài của Trung Quốc. Theo ông, chính quyền Trump có thể đi xa đến đâu để thực
hiện mục tiêu này?
Hoa Kỳ sẽ không làm gì được
nhiều để thực hiện những lời nói của ông Pompeo.
Chính Hoa Kỳ đã vô tình
giúp tạo ra con quái vật Trung Cộng suốt mấy chục năm qua do các chính sách của
nó dựa vào một sự hiểu sai quan hệ giữa hiện đại hoá và dân chủ hoá: họ cứ đinh
ninh rằng giúp Trung Quốc phát triển kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới
(tức là biến nền kinh tế Trung quốc thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì
sẽ dẫn đến sự mở cửa về chính trị theo hướng dân chủ hơn).
Không học giả đáng kính
nào của thuyết hiện đại hoá kinh điển đã nói vậy, ngay cả S. M. Lípset. Đấy là
một sự hiểu sai, thô thiển, chết người của hầu hết các nhà chính trị Tây phương
trong mấy thập niên qua. Đúng là kinh nghiệm lịch sử cho thấy không nền dân chủ
bền vững nào mà không có một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển cả (nói
cách khác nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có thể được xem như điều kiện cần cho
dân chủ nhưng không phải là điều kiện đủ).
Tuy vậy, Hoa Kỳ và các nước
phương Tây khác có thể làm nhiều, nhất là có thể sửa sự hiểu sai của chính mình
và có những chính sách phù hợp đối với Trung Quốc; việc này hiện nay về cơ bản
đang xảy ra.
Tiếp đến Hoa Kỳ nên củng cố và phát triển các liên
minh của mình chứ không phải làm rệu rã chúng như trong mấy năm qua. Cuối cùng Hoa Kỳ nên tiếp tục hỗ trợ mạnh
mẽ hơn sự phát triển xã hội dân sự ở các nước khác nhất là ở Trung Quốc. Tôi
nghĩ đấy là những việc Hoa Kỳ nên làm với Trung Quốc.
***
Giả sử vào tháng 11 năm 2020, ông Trump thất cử và
ông Joe Biden của Đảng Dân chủ nắm quyền tổng thống thì chính sách đối với
China và Việt Nam của Hoa Kỳ sẽ thế nào?
Do Hoa Kỳ và
phương Tây nói chung đã thức tỉnh về “con quái vật” Đảng
Cộng sản Trung Quốc và có sự nhất trí cao giữa hai đảng Dân chủ
và Cộng hoà về vấn đề này. Cho nên tôi nghĩ chính sách đang đúng hướng
hiện thời của Hoa Kỳ với Trung Quốc và Việt Nam sẽ không thay
đổi nhiều dù ai sẽ được bầu làm Tổng thống vào 3-11-2020.
***
Tổng thống Trump từ khi lên nắm quyền đã thực thi
nhiều chính sách gây đổ vỡ quan hệ với các đồng minh truyền thống. Hoa Kỳ không
chỉ gây chiến tranh thương mại với China mà còn với Nhật Bản, Tây Âu và Canada.
Hoa Kỳ cần làm gì để các nước ở Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Philippines
tin rằng Hoa Kỳ sẽ giúp họ chống lại cuộc xâm lược của China trên biển
Đông?
Chiến tranh thương mại không
có lợi cho bất cứ nước nào (tuy có lợi cho nhóm này nhóm nọ) cho nên
Hoa Kỳ nên chấm dứt chiến tranh thương mại (kể cả với Trung Quốc) nói chi đến với
các đồng minh lâu năm và đồng minh tiềm năng.
Hoa Kỳ nên quay lại TPP (hay CPTPP) và mở rộng, tăng cường các liên minh cũ
và phát triển các liên minh mới trên thế giới và quan trọng nhất chính sách đối
ngoại không mang tính “đồng bóng” mà phải coi việc tạo dựng, củng cố niềm tin
là rất quan trọng.
Chỉ có thế may ra các nước
trong khu vực mới tin vào những gì các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ nói. Sự
tin cậy, sự tin cậy và sự tin cậy (phá rất dễ với chính sách không nhất
quán và đồng bóng) là yếu tố cốt lõi.
***
Ông nhận xét như thế nào về gợi ý “chọn một bên”
(“pick a side”) giữa tự do và chuyên chế của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Pompeo đã phát
biểu tại
Bảo tàng và Thư viện Tổng thống Richard Nixon ngày 23/7/2020?
Nếu ông Pompeo nói thật
lòng, tức là chọn bên không có nghĩa là chọn Hoa Kỳ hay Trung Quốc mà là chọn
bên chính nghĩa, bên đúng về mặt đạo đức để thúc đẩy phát triển và bảo vệ hoà
bình thì tôi nghĩ tất cả các nước nên chọn bên đúng như ông Pompeo đã giải
thích. Đấy là một điều hết sức quan trọng.
Thế nhưng, lại chữ
“nhưng” mà lịch sử rất không thích, hiểu thế nào là “chính nghĩa”, thế nào là
đúng về “đạo đức”, thế nào là để thúc đẩy “phát triển” và “bảo vệ hoà bình”? Vì
bên nào cũng bảo mình chính nghĩa, mình hợp đạo lý, mình thúc đẩy phát triển và
bảo vệ hoà bình và nói bên kia là quỷ dữ làm điều ngược lại. Nghệ thuật tuyên
truyền hay nhẹ đi “spinning” luôn được sử dụng từ cổ đến nay và trong thời
internet, kỹ thuật số, dữ liệu lớn và AI thì tuyên truyền và “spinning” vô cùng
hiệu quả.
Phải thống nhất với nhau
một tập các giá trị cốt lõi mà tuyệt đại đa số người dân trên thế giới có thể dễ
thống nhất và phải dựa vào các giá trị ấy để đánh giá thế nào là đúng, thế nào
là sai (và rất nhiều khi tư duy nhị phân đúng-sai, 1-0, thiện-ác,.. không thể sử
dụng được), vân vân.
Cách suy nghĩ khẳng định
(positive) này chưa chắc đã hiệu quả bằng cách suy nghĩ phủ định (negative), tức
là loại dần những cái mà đại đa số coi là XẤU (vì số lượng hay lực lượng của tập
hợp của những cái xấu (B) có thể nhỏ hơn số lượng hay lực lượng của tập hợp những
cái TỐT (G), dùng ngôn ngữ toán tọc |B| << |G|); do tư duy của chúng ta
là hạ chế khi làm việc với tập hợp B dễ hơn với tập hợp G. Như thế chúng ta
không hướng tới một hệ thống hoàn hảo, toàn cái tốt mà xuất phát từ thực tế
phát hiện ra các yếu tố thuộc B và tìm mọi cách loại bỏ nó, tức là cải thiện từ
từ. Thay cho việc cố xây dựng càng nhiều yếu tố của G. Vấn đề là cả B và G thay
đổi theo thời gian.
Có thể đánh giá việc đứng
về (các) hệ thống nào có khả năng cải thiện liên tục như thế hay hệ thống cứng
nhắc hơn một cách dễ dàng hơn nhiều và ít bị tuyên truyền hay “spinning” tác động.
Nhất quyết nên chọn phe theo kiểu như vậy. Theo đánh giá của tôi nếu quay lại sự
phân loại Hoa Kỳ-Trung Quốc (hay Phương Tây-Trung Quốc) thì rõ ràng Phương Tây
có khả năng thích nghi hơn, có khả năng cải thiện hơn vì nó tôn trọng các quyền
tự do. Và như thế quanh đi quẩn lại vẫn là nên chọn theo kiểu Mỹ hơn là theo kiểu
Tàu.
Nhìn lại lịch sử Việt
Nam, rất đáng tiếc các lực lượng chính trị có vai trò quyết định ở
Việt Nam đã liên tục có những sự chọn bên sai: Bất bạo động (Phan
Châu Trinh) vs bạo lực (Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh và ĐCSVN); dân chủ vs cộng sản;
vân vân. Những vấn đề hệ trọng như thế này phải được thảo luận kỹ càng để
các ý kiến khác nhau đụng độ nhau và hình thành một sự
đồng thuận nào đó giữa những người Việt.
***
Sách trắng Quốc phòng mới nhất của Việt Nam được
công bố vào tháng 12 năm 2019 có nhiều cách diễn đạt khá chung chung như thường
lệ, chẳng hạn, khẳng định Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc vì “đại cục”,
dù thừa nhận hai nước có “tranh chấp” chủ quyền ở Biển Đông. Sách trắng Quốc
phòng không coi Trung Quốc là kẻ thù mà khẳng định kẻ thù là “những thế lực thù
địch” và “phản động”. Đối với cuộc cạnh tranh giữa China và Hoa Kỳ, Sách trắng
coi đây là một mối nguy hiểm đối với hòa bình và ổn định trong khu vực (Đông
Nam Á nói chung và Biển Đông nói riêng). Từ đó, Sách trắng khẳng định chính
sách 3 không: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam,
không dựa vào nước này để chống nước kia và cả không kiện China ra tòa án quốc
tế.
Ông đánh giá như thế nào về nhận thức về quốc gia và
thế giới của chính phủ Việt Nam, cũng như chính sách thực thi trên cơ sở nhận
thức đó, như được thể hiện trong Sách trắng này?
Tôi không quan tâm quá đến
lời văn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chú tâm hơn nhiều đến hành động của họ.
Không chỉ vì chuyện “nói một đằng, làm một nẻo” mà trong đối ngoại chúng ta nên
chú ý cả đến hành văn và nhất là đến hành động.
Quan hệ Việt-Trung và Việt-Mỹ
là các mối quan hệ tối quan trọng đối với Việt Nam, dù đảng chính trị nào nắm
quyền cũng phải đánh giá như thế nếu muốn Việt Nam tồn tại và phát triển.
Những lời nói đôi khi mơ
hồ trong Sách trắng, nếu nghĩ kỹ không mơ hồ lắm đâu. Tôi chưa
thấy Sách trắng hay bất cứ tuyên bố nào của Đảng Cộng sản Việt
Nam là không kiện Trung Quốc cả. Không dựa vào nước này để chống
nước kia hoàn toàn KHÔNG LOẠI trừ khả năng dựa vào hay liên minh với người khác
để CHỐNG XÂM LƯỢC.
Đây là một vấn đề hết sức
quan trọng chứ không phải chỉ “nhạy cảm” hay “tế nhị” và chắc cần một bài phân
tích dài chứ khó có thể trình bày trong một câu phỏng vấn nhanh.
***
The Bureau of Political-Military Affairs của chính
phủ Mỹ ngày 27 tháng 7 năm 2020 đã có một
bài viết liệt kê các hoạt động gắn kết Hoa Kỳ và Việt Nam, như
chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tháng 3 năm 2020, các viện trợ quân sự khoảng
200 triệu dollars cho Việt Nam từ 2015 đến nay, Việt Nam lần đầu tham gia cuộc
tập trận quân sự U.S. Global Peace Operations Initiative (GPOI) năm 2018… Tuy
nhiên, chúng ta thử theo dõi một loạt động thái của Việt Nam đối với Mỹ trong
thời gian gần đây: Năm 2018, Việt Nam hủy
bỏ 15 hoạt động giao lưu quốc phòng với Hoa Kỳ đã được lên kế
hoạch cho năm 2019, từ chối tham gia Diễn tập quân sự Vành đai Thái Bình Dương
(RIMPAC- the Rim of the Pacific Exercise) ở đảo Hawaii tháng 8 năm
2020. Trên báo
Quân đội Nhân dân, cho đến gần đây, các tuyên truyền chống “diễn
biến hòa bình” vẫn đều đặn. Ngược lại, các bản tin về
China không cho thấy hình ảnh một China đang xâm chiếm biển đảo
Việt Nam là nghiêm trọng. Đầu năm 2019, tạp chí “Xây dựng Đảng” cho biết: Ban Tổ
chức Trung ương “chủ
trì tổ chức 29 đoàn với 569 lượt cán bộ đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài,
đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng ta và Đảng Cộng sản Trung Quốc”.
Theo ông, những sự kiện trên có ý nghĩa chính trị gì
hay không? Ông đánh giá như thế nào về tương lai quan hệ Việt Mỹ?
Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chọn bên sai ngay từ đầu (nhà văn Nguyên Ngọc nói là từ năm 1920). Những sự kiện
nêu trên là hệ quả tai hại cho dân tộc mà chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Đảng Cộng sản Trung Quốc
có chính sách nhất quán là mua vua, mua quan và bắt elite chính trị ngoan ngoãn
theo nó. Từ trước đến nay vẫn thế. Để chui ra khỏi cái bẫy này của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cần những nỗ lực to lớn về khai dân trí và nhất là quan trí, và người
dân phải cất lên tiếng nói của mình.
***
Sau khi Việt Nam chấp nhận đền bù (theo Bill
Hayton là lên đến 1 tỷ USD) để huỷ hợp đồng thuê tàu khoan Noble
Clyde Boudreaux, do sức ép của China, thì lại có một thông tin khác: công ty
Hoa Kỳ là Exxon
Mobil đang “khẩn trương hoàn tất đàm phán giá khí” với các đối
tác Việt Nam. Ông có cho rằng có “ngoại giao dầu mỏ” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
hay không? Chúng có tác động đến quan hệ chính trị giữa hai nước như thế nào?
Chắc chắn có “ngoại giao
dầu mỏ” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng đừng hiểu “ngoại giao x” (trong đó x có
thể là bóng bàn, bóng rổ,… ) theo kiểu giữa các nước Cộng sản với Tây phương
trước kia, vì về phía Cộng sản họ có thể điều khiển 100% “đối tác ngoại giao” của
nó, còn phía công ty dầu thì chính phủ Mỹ không điều khiển được.
Thậm chí còn có nguy cơ bị
Đảng Cộng sản Trung Quốc “mua cổ phần” để tạo ảnh hưởng như với
Rosneft. Công ty dầu khí Nga Rosneft
phải dừng các kế hoạch dầu khí ngoài khơi Việt Nam. Rosneft có quan hệ
chặt chẽ với Trung Quốc hơn Việt Nam. Công ty dầu khí tư nhân của Trung Quốc là
CEFC China Energy sở
hữu 14.16% tập đoàn dầu khí Nga Rosneft. Còn tập đoàn tài chính của chính
phủ China là Huarong mua lại 36% của CEFC
China Energy. Chiếm 14,16% cổ phần là có ảnh hưởng rất lớn. Lưu ý rằng
doanh nghiệp ở Trung Quốc rất khác với các doanh nghiệp ở Tây phương, tất cả đều
nghe lệnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. CEFC China có thể chỉ là tư nhân trên
danh nghĩa. Còn thêm nữa chủ tịch của Rosneft là cựu thủ tướng Đức Gerhard
Schröder là một “lão bằng hữu” của Đảng Cộng sản Trung Quốc, rất thân với Đảng
Cộng sản Trung Quốc và chính sách của nó.
***
Đã có nhiều phản
hồi đối với bài phát biểu của ông Pompeo và trong
đó có nhiều phản hồi không tích cực. Trong số các bài phê bình ông
Pompeo, có bài phủ nhận sự nguy hiểm của Trung Quốc, như bài “What
Mike Pompeo doesn’t understand about China, Richard Nixon and U.S. foreign
policy” của Richard Haass trên Washington Post, cho rằng họ
không tiến hành chiến tranh từ 1979, không dùng vũ lực để chống lại Đài Loan.
Còn ông đánh giá như thế nào về bài phát biểu của ông Pompeo và các bài phản biện
nói trên?
Trung Quốc đã nuôi dưỡng
được những mối quan hệ rất mật thiết với một số chính trị gia và học giả Hoa Kỳ,
cho nên không lạ là có những ý kiến như vậy.
Nó cũng phản ánh cả cái yếu
của các tổ chức đã để cho Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể thao túng,
nhưng cũng thể hiện cái mạnh của Mỹ về tự do ngôn luận và báo chí, mà cũng đang
bị tấn công dữ dội trong vài năm qua.
Các chính trị gia và học
giả khác nên phản pháo lại những ý kiến như vậy. Tôi ủng hộ phát biểu của ông Bộ
trưởng và mong lời nói của ông trở thành hành động.
Tạp
chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Quang A.
----------------------------------
Việt
Nam trước cuộc song đấu Mỹ Trung (2)
7 Tháng Chín, 2020
https://usvietnam.uoregon.edu/cuoc-dau-my-trung-ngay-nay-khac-xung-dot-my-lien-so-truoc-day/
(Ảnh: Tàu chiến Mỹ
USS Gabrielle Giffords lao tới khu vực tàu Hải Dương 4 của Trung Quốc [số 1] uy
hiếp tàu kiểm ngư Việt Nam [số 2], ngày 1 tháng 7, 2020. Ảnh: US NAVY)
Tháng 5 năm 2020, chính phủ Hoa Kỳ công bố báo cáo
“Tiếp cận chiến lược của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc” (“United
States strategic approach to the People’s republic of China”). Tiếp theo,
nhiều chính khách Hoa Kỳ liên tục có bài phát biểu dường như xác lập một cuộc
chiến tranh lạnh mới của Hoa Kỳ với Trung Quốc, như Robert C. O’Brien, Cố vấn
An ninh Quốc gia, phát biểu bài “The
Chinese Communist Party’s Ideology and Global Ambitions” , ngày 24
tháng 6, 2020, Christopher A. Wray, Giám đốc Cục Điều tra Liên bang, phát biểu
bài “The
Threat Posed by the Chinese Government and the Chinese Communist Party to the
Economic and National Security of the United States,” ngày 7 tháng 7,
2020. Ngoại trưởng Mike Pompeo có bài phát biểu “Communist
China and the Free World’s Future” tại Bảo tàng và Thư viện Tổng thống
Richard Nixon, như muốn đánh dấu bước ngoặt chính sách đối với China của Hoa Kỳ
được thiết lập từ thời Tổng thống Nixon năm 1972.
Việt Nam có xuất hiện đây đó trong các diễn ngôn
chính sách nói trên của Hoa Kỳ đối với China. Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ đại học
Oregon xin giới thiệu bài phỏng vấn nhanh với ông Vũ
Tường, Giáo sư Trưởng khoa Chính trị học Đại học Oregon, ông Nguyễn
Mạnh Hùng, Giáo sư huân công Đại học George Mason, TS. Nguyễn
Quang A, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội ở Việt Nam, về quan hệ Việt Mỹ
Trung trong bối cảnh hiện nay.
Dưới
đây là bài phỏng vấn GS. Nguyễn Mạnh Hùng.
—————-
Tổng
thống Trump vào năm 2019 đã phát biểu rất mạnh mẽ khi phê
phán chủ
nghĩa xã hội ở Venezuela, sau đó ông Pompeo thì kêu
gọi thế giới chống chế độ chuyên chế cộng sản chủ nghĩa của Trung Quốc.
Ông đánh giá như thế nào về những lời tuyên bố này của họ?
Trong vụ khủng hoảng
chính trị ở Venezuela, chính quyền Trump công nhận Chủ tịch Quốc Hội Guaido được
Quốc Hội bầu làm “Tổng Thống tạm thời” thay thế Tổng Thống đương nhiệm Maduro,
và dùng chế tài kinh tế và ngoại giao buộc Maduro phải từ chức, chuyến quyền
cho Guaido.
Chính sách này được Tổ Chức
các Quốc Gia Mỹ Châu (Organization of American States) và Liên Hiêp Âu Châu ủng
hộ. Tổng Thống Trump còn đi xa hơn và dọa có thể dùng vũ lực để thi hành chính
sách này. Chính sách này bị Nga chống và Hoa Kỳ đã bỏ lửng. Cho đến nay, chính
quyền Maduro vẫn còn tại vị.
Điều này cho thấy chính
quyền Trump thích tuyên bố mạnh nhưng đến khi vấp phải phản ứng cứng rắn của đối
phương thì không tiến tới nữa. Những lời tuyên bố hùng hồn của Tổng Thống Trump
ở Miami lên án xã hội chủ nghĩa và kêu gọi lật đổ các chế độ ấy ở Venezuela,
Cuba, và Nicaragua nhưng không dám tiến tới phải chăng chỉ là những lời nói nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của cử tri quốc nội, đặc biệt khối người Mỹ gốc Cuba ở
Florida hơn là đặt nền tảng cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Venezuela là một nước có
nền kinh tế đang bị khủng hoảng trầm trọng, lại ở gần nước Mỹ, và chính sách chống
Maduro được nhiều nước hưởng ứng, trong nước họ lại có sẵn lực lượng đối lập lớn,
được dân chúng ủng hộ mạnh mẽ, mà Hoa Kỳ còn không có khả năng thực hiện mục
tiêu của minh, thì đối với Trung Quốc, việc đòi hỏi dân chủ hóa Trung Quốc và
thay đổi Đảng Cộng Sản Trung Quốc là việc làm khó hơn nhiều.
***
Theo ông, chính sách đối với Trung Quốc và Việt Nam
của Hoa Kỳ có thay đổi hay không nếu có sự thay đổi lãnh đạo sau cuộc bầu cử
tháng 11 năm 2020?
Ngày nay, hầu hết các chiến
lược gia và lãnh đạo chính trị của cả hai đảng lớn ở Hoa Kỳ đều đi đến kết luận
rằng Trung Quốc là đối thủ chiến lược của Hoa Kỳ, nước này đang tìm cách bành
trướng ảnh hưởng, và muôn cạnh tranh với Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo thế giới.
Vì thế, nếu không muốn bị lép về, Hoa Kỳ phải chống Trung Quốc.
Phát biểu của Ngoại
trương Pompeo được phối hợp nhịp nhàng với những tuyên bố gần như cùng một
lúc của Cố vấn An ninh Quốc gia O’Brien, Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên Bang
Wray, và Bộ trưởng Tư Pháp Barr phản ánh sự đồng thuận lưỡng đảng về hướng đi của
chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, dù Tổng Thống Trump vẫn coi Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình là “người bạn rất tốt” và ôm ấp hy vọng ký được một “thương ước lịch sự
với Trung Quốc.” Áp dụng điều này ở Biển Đông, nếu Hoa Kỳ không muốn để Trung
Quốc chiếm vị thế độc tôn thì Hoa Kỳ phải tạo ra thế đa cực ở vùng này, và phải
giúp Việt Nam trở thành một cực quan trọng trong thế đa cực ấy.
Chính sách này được giới
chuyên gia chiến lược và lãnh đạo chính trị ở Hoa Kỳ -thành phần mà ông Trump gọi
là “the deep state”– đồng ý. Nó không những sẽ không thay đổi nếu ông Trump thất
cử mà còn được đặt trên căn bản vững chắc hơn của quyền lợi chiến lược của Hoa
Kỳ.
***
Đổ vỡ quan hệ với các đồng minh truyền thống ở châu
Âu và châu Á trong gần bốn năm qua, nước Mỹ cần làm gì để khôi phục niềm tin
chiến lược từ các nước ở Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Philippines?
Trong mấy năm qua, Trung
Quốc đã tạo được một thế áp đảo ở Biển Đông đến nỗi Đô Đốc Philip Davidson, Tư
Lệnh Ấn Đô-Thái Bình Dương phải công nhận rằng Trung Quốc “có khả năng kiểm
soát Biển Đông trong mọi tình huống trừ có chiến tranh với Mỹ.” Một lợi
thế của Hoa Ky trong việc cạnh tranh với Trung Quốc là hệ thống đồng minh và đối
tác của Mỹ ở vùng này, nhưng
chính quyền Trump với lối hành động đơn phương ích kỷ trong chính sách “Mỹ trên
hết” đã làm suy yếu đồng minh và làm giảm lòng tin của họ vào khả năng và quyết
tâm của Hoa Kỳ. Đó là chưa kể những tuyên bố và hành động bất nhất của chính
quyền Trump. Lòng tin chiến lược là điều kiện căn bản của một liên minh vững
chắc chống kẻ thù chung, môt khi bị sứt mẻ thì khó hàn gắn.
Để chứng tỏ với các quốc
gia trong khu vực rằng Hoa Kỳ đứng về phía họ trong tranh chấp chủ quyền biển đảo
với Trung Quốc, lần đầu tiên Ngoại trưởng Pompeo tuyên bố dứt khoát rằng “các
yêu sách của Bắc Kinh đối với các nguồn tài nguyên hầu hết ở Biển Đông cũng như
chiến dịch bắt nạt để kiểm soát nguồn tài nguyên đó, là hoàn toàn bất hợp
pháp,” và cảnh báo “Thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông là đế chế
hàng hải của mình.”
Đó mới là lời nói, lời nói này phải được hỗ trợ bằng
hành động. Nếu Hoa Kỳ thực tâm muốn
ủng hộ ASEAN chống sự “bắt nạt” của Trung Quốc như họ nói, thì ít nhất Hoa Kỳ
phải làm một số việc như sau:
-Thứ nhất, tuyên bố ủng hộ quyền các quốc gia Đông Nam Á khai thác dầu khí trong
vùng biển thuộc chủ quyền của họ theo luật quốc tế và luật biển.
-Thứ hai, để hỗ trợ cho lời nói, Hoa Kỳ phải tiếp tục cho tàu chiến, như trường
hợp USS Gabrielle Giffords và USS America, biểu dương lực lượng và theo dõi tầu
khảo sát địa chất của Trung Quốc đi vào vùng tranh chấp để de dọa và ngăn cản
không cho các nước trong khu vực khai thác tài nguyên của họ.
-Thứ ba, tái thương thuyết
để gia nhập TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement), sau được đổi là
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP –
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership), bởi vì
nó là một cái neo kinh tế cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Á châu-Thái Bình Dương.
–Thứ tư, phê chuẩn công ước về luật biển 1982 để có tư cách chính thống đòi hỏi
Trung Quôc tuân thủ luật quốc tế và luật biển.
Riêng đối với Việt Nam,
điều kiện thứ nhất đã được ngoại trưởng Pompeo khẳng định. Phép thử điều kiện
thứ hai là liệu Hoa Kỳ có biện pháp khuyến khích và bảo vệ các công ty dầu khí
khai thác tài nguyên của Việt Nam trong vùng Bãi Tư Chính và khu vực Cá Voi
Xanh hay không.
***
Ông thấy thế giới ngày nay và hồi thập niên 1940 có
gì giống và khác nhau, khi phải “chọn đứng về một bên” (“pick a side”) giữa tự
do và chuyên chế, như cách nói của ông
Ngoại trưởng Pompeo ngày 23 tháng 7 năm 2020 tại Bảo tàng và Thư viện
Tổng thống Richard Nixon?
Thời chiến tranh lạnh với
Nga Xô và thời nay đối với Trung Quốc khác nhau nhiều. Thời trước, các quốc gia
Âu châu bị suy yếu trầm trọng vì chiên tranh, chỉ có thể và muốn dựa vào Hoa Kỳ
đê bảo vệ cho mình trước đe dọa của Nga Xô. Hơn nữa, Hoa Kỳ lúc đó cũng sẵn
sàng đóng vai trò lãnh đạo thế giới, chấp nhận hy sinh để tạo ra những liên
minh quân sự nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Nga Xô. Sự chọn bên của họ ngày ấy
thật dễ dàng và giản dị. Ngày
nay, không những Hoa Kỳ, với chính sách “Mỹ trên hết,” đã từ bỏ trách nhiệm
lãnh đạo mà còn o ép đồng minh làm suy yếu các liên minh sẵn có.
Ngày trước, kinh tế thế
giới chia làm hai khối rõ rệt, không tương tác với nhau, Ngày nay, hiện tượng
toàn cầu hóa làm các nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau, kể cả quan hệ kinh tế giữa
Hoa Kỳ với Trung Quốc. Nhu cầu phát triển kinh tế, nhất là phát triển hạ tầng
cơ sở khiến các quốc gia Đông Nam Á khó cưỡng lại sự hấp dẫn của những khoản
cho vay dễ dàng của Trung Quốc dù biết hậu ý của nó. Trong khi đó thì ngân khoản
mà Hoa Kỳ đưa ra để giúp các quốc gia khu vực vừa giới hạn vừa kèm theo những
điều kiện tương đối khó khăn. Hơn nữa, các nước đó vẫn còn nghi ngờ quyết tâm
và khả năng của Hoa Kỳ giúp họ chống là sự lấn lướt của Trung Quốc. Trong tình
trạng này, chọn bên không phải là một việc dễ như xua.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam
khi chiến tranh lạnh bắt đầu, chính phủ Hồ Chí Minh cũng muốn được Hoa Kỳ công
nhân và ủng hộ, nhưng bị Hoa Kỳ từ chối. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần
thứ nhất, còn gọi là chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, Hoa Kỳ bị đặt trước lựa
chọn một bên là Pháp thực dân bên kia là Việt Nam Cộng Sản, Hoa Kỳ dù không ủng
hộ chính sách thực dân của Pháp, nhưng phải đứng về phía Pháp vì cần có Pháp
trong Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để chống Nga Xô.
Ngày nay, tình hình thế
giới đã thay đổi hoàn toàn. Chính quyền Cộng sản ở Việt Nam đã thiết lập được mối
quan hệ tốt với Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ cần Việt Nam như một con bài quan trọng trong
thế đa cực ơ Biển Đông. Ngược lại, Việt Nam cũng cần Hoa Kỳ như là một đối trọng
với Trung Quốc. Một bên là Trung Quốc có cùng chế độ chính trị như Việt Nam và
càng ngày càng lớn mạnh với một bên là Hoa Kỳ đang co cụm với một chính quyền
hành động khó lường, sự chọn bên của họ không phải là một điều dễ.
***
Ông đánh giá như thế nào đối với nhận thức về Trung
Quốc và Hoa Kỳ trong Sách trắng Quốc phòng mới nhất của Việt Nam được công bố
vào tháng 12 năm 2019? Theo ông, nhận thức về quốc gia và thế giới của chính phủ
Việt Nam, cũng như chính sách thực thi trên cơ sở nhận thức đó, như được thể hiện
trong Sách trắng này, có vấn đề gì không?
Sách trắng Quốc phòng
2019 của Việt Nam nhằm làm “minh bạch” chính sách quốc phòng của Việt Nam với
thế giới nhưng chủ yếu hướng về phía Trung Quốc. Thứ nhất, Việt Nam
khẳng định “chiến lược quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo
vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống
chiến tranh xâm lược, mang tính chất hòa bình tự vệ…” Để chống chiến tranh
xâm lược, Việt Nam phải tăng cường ngân quốc phòng để “duy trì sức mạnh quốc
phòng cần thiết” đồng thời “tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng
cao khả năng bảo vệ đất nước.”
Thứ hai, để trấn an Trung Quốc rằng Việt Nam không là mối đe dọa an ninh sát
nách của Trung Quốc và không muốn bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp giữa hai đại
cường Hoa-Mỹ, sách trắng nhắc lại nguyên tắc ba không theo đó “Việt Nam chủ
trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống
nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt
Nam để chống lại nước khác.”
Thứ ba, lời cam kết “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế” mà có người giải thích là cái “không” thứ bốn có thể được coi
như một lời khuyến cáo hay trách khéo những kẻ muốn hay đang dùng vũ lực để áp
đặt tham vọng của mình.
Nếu nhìn như vậy, người
ta thấy không có vấn đề gì lớn phải đặt ra với sách trắng này. Như đã nói ở
trên Việt Nam cần Hoa Kỳ như là một đối trọng với Trung Quốc. Nhưng giữa một
bên là Trung Quốc càng ngày càng lớn mạnh và cùng chế độ chính trị với mình, một
bên là Hoa Kỳ đang co cụm với một chính quyền hành động khó lường, sự “chọn
bên” theo khuyến cáo của ông Pompeo không phải là một điều dễ.
***
Ông đánh giá như thế nào về tương lai quan hệ Việt Mỹ
và Việt Trung?
Việt Nam ở sát nách Trung
Quốc, môt đại cường khu vực và quốc tế. Việc xử lý quan hệ với Trung Quốc để vừa
giữ được giao hảo vừa bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ là một thử thách có
tính cách sinh tử. Ngoài ra, Việt Nam và Trung Quốc cùng theo chế độ cộng sản
và là hai nước cộng sản lớn nhất còn tồn tại trên thế giới, việc họ thường
xuyên trao đổi và học tập kinh nghiệm của nhau là điều dễ hiểu.
Nói chung, quan hệ Việt-Mỹ
đã có những bước tiến tốt và, trong tình trạng bình thường, sẽ tiếp tục như vậy.
Quan hệ Việt-Mỹ biến đổi theo quan hệ Việt-Trung. Nếu quan hệ Việt-Trung xấu
thì quan hệ Việt-Mỹ sẽ thắm thiết hơn.
***
Ông đánh giá như thế nào về bài phát biểu của ông
Pompeo và các bài phản biện lại ông Pompeo, như Thomas
Wright ở Brookings Institution hay James
Palmer ở Foreign Policy, và Richard
Haass trên Washington Post?
Trong lời phát biểu của
Ngoại trưởng Pompeo, tôi chú ý đến lời kêu gọi thành lập một “liên minh dân chủ”
để tranh đấu cho “tự do” chống Trung Quốc độc tài.
Trong bối cảnh
của chính sách “Mỹ trên hết” và những hành động o ép gây mâu thuẫn làm suy yếu
đồng minh, thân thiện với các lãnh tụ độc tài (Vladimir Putin, Tâp Cân Bình, Recept
Erdogan, Mohammed Salman, v.v…) của chính quyền Trump, đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, một cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược.”
Trong khi ông Tổng Thống,
theo tiết lộ của cựu Cố vấn An Ninh quốc gia John Bolton, dung túng chính sách
của Tập Cận Bình lập trại cải tạo giam người Hồi giáo Tân Cương và đàn áp nhân
quyền ở Hong Kong, bỏ qua hành động giết người bất đồng chính kiến một cách tàn
nhẫn và trắng trợn của Mohammed bin Salman thì có ai tin được lời kêu gọi tranh
đấu cho tự do của ông Ngoại trưởng?
Trong khi ông Tổng Thống
đả phá và làm suy yếu các liên minh hiện có thì ai có thể sốt sắng với lời kêu
gọi lập liên minh dân chủ chống Trung Quốc của ông Ngoại Trưởng?
Tạp
chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin chân thành cảm ơn GS. Nguyễn Mạnh Hùng.
------------------------------------------------------------
.
Việt
Nam trước cuộc song đấu Mỹ Trung (1)
6 Tháng Chín, 2020
https://usvietnam.uoregon.edu/wp-content/uploads/2020/09/VN-My-1-1024x576.jpg
Hàng không mẫu hạm
USS Ronald Reagan trên Biển Đông (Kaila V. Peters/U.S. Navy)
Tháng 5 năm 2020, chính phủ Hoa Kỳ công bố báo cáo
“Tiếp cận chiến lược của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc” (“United
States strategic approach to the People’s republic of China”). Tiếp theo,
nhiều chính khách Hoa Kỳ liên tục có bài phát biểu dường như xác lập một cuộc
chiến tranh lạnh mới của Hoa Kỳ với Trung Quốc, như Robert C. O’Brien, Cố vấn
An ninh Quốc gia, phát biểu bài “The
Chinese Communist Party’s Ideology and Global Ambitions” , ngày 24 tháng 6,
2020, Christopher A. Wray, Giám đốc Cục Điều tra Liên bang, phát biểu bài “The
Threat Posed by the Chinese Government and the Chinese Communist Party to the
Economic and National Security of the United States,” ngày 7 tháng 7, 2020.
Ngoại trưởng Mike Pompeo có bài phát biểu “Communist
China and the Free World’s Future” tại Bảo tàng và Thư viện Tổng thống
Richard Nixon, như muốn đánh dấu bước ngoặt chính sách đối với China của Hoa Kỳ
được thiết lập từ thời Tổng thống Nixon năm 1972.
Việt Nam có xuất hiện đây đó trong các diễn ngôn
chính sách nói trên của Hoa Kỳ đối với China. Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ đại học
Oregon xin giới thiệu bài phỏng vấn nhanh với ông Vũ
Tường, Giáo sư Trưởng khoa Chính trị học Đại học Oregon, ông Nguyễn
Mạnh Hùng, Giáo sư huân công Đại học George Mason, ông Nguyễn
Quang A, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội ở Việt Nam, về quan hệ Việt Mỹ
Trung trong bối cảnh hiện nay.
Dưới
đây là bài phỏng vấn GS. Vũ Tường
—————-
Tổng thống Trump đã đưa ra những chính sách chống
Trung Quốc khá toàn diện. Ông đánh giá như thế nào về những chính sách này? Ông
Pompeo kêu gọi đoàn kết chống chế độ độc tài Trung Quốc, chính quyền ông Trump
có thể đi xa đến đâu ở mục tiêu mà ông Pompeo tuyên bố?
Chính phủ Trump đã gây ra
nhiều khó khăn kinh tế cho Trung Quốc qua việc tăng thuế đánh lên nhiều mặt
hàng Trung Quốc và đưa ra những đòi hỏi về mở cửa thị trường, giảm bảo hộ mậu dịch,
và tăng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Chính phủ Trump cũng đã
gây áp lực lên Trung Quốc trong vấn đề người Uy Ngô Nhĩ (Uighurs), Hong Kong,
và biển Đông.
Nhưng chắc chắn chiến
tranh Mỹ-Trung chưa thể xảy ra, và Mỹ cũng không nghĩ đến việc thay đổi chế độ
cộng sản ở Trung Quốc vì điều này rõ ràng chỉ có nhân dân Trung Quốc mới làm được.
Tôi cho là áp lực của Mỹ
có thể chỉ dẫn đến nhân nhượng tạm thời từ phía Trung Quốc, và Bắc Kinh sẽ vẫn
tìm cách ngấm ngầm tăng cường sức mạnh của họ để một ngày kia có thể thách đố quyền
lực Mỹ.
Chính sách của Trump có
thể dẫn đến sự phân hoá trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc, nhưng phân hoá đến
đâu thì không ai biết. Chính sách của Trump cũng có thể khuyến khích các nước láng
giềng của Trung Quốc, đặc biệt là Đài Loan, bớt sợ Trung Quốc, nhưng còn quá sớm
để có thể thấy sự chuyển dịch này.
***
Theo ông, giả sử tháng 11 năm 2020, ông Biden thắng
cử thì chính sách của chính phủ Biden đối với Trung Quốc và Việt Nam sẽ khác thế
nào với chính phủ Trump?
Tôi tiên đoán chính phủ
Biden sẽ tiếp tục một phần chính sách của Trump, nhưng cũng sẽ tìm cách giảm
căng thẳng với Trung Quốc.
Thực ra quan hệ với Trung
Quốc không phải là ưu tiên hàng đầu của Biden như đối với Trump. Có nhiều vấn đề
khác quan trọng hơn như COVID-19, kinh tế suy thoái, xung đột chủng tộc, di
dân, và bảo hiểm y tế, khiến cho vấn đề với Trung Quốc sẽ không được chú ý nhiều.
Chính sách của chính phủ
Biden đối với Việt nam sẽ không có gì mới so với chính sách của thời Obama.
***
Xin ông cho một nhận xét tổng quan về cách các nước
Đông Nam Á nhìn Hoa Kỳ và Trung Quốc. Đối với cuộc xâm lược của Trung Quốc trên
biển Đông, Hoa Kỳ cần làm gì để các nước ở Đông Nam Á tin rằng Hoa Kỳ sẽ giúp họ?
Không phải tất cả các
chính phủ và dân chúng ở các nước ở Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia,
Philippines đều có thái độ thù địch đối với Trung Quốc hay coi Trung Quốc như một
mối đe dọa trên biển Đông.
Nhiều người Philippines
ghét Mỹ hơn ghét Trung Quốc, và nhiều vị trong chính phủ Việt nam cho đến nay vẫn
xem Trung Quốc là đối tác chiến lược còn Mỹ thì phải đề phòng “âm mưu diễn biến
hoà bình” của họ.
Chính phủ Mỹ có thể làm
nhiều thứ, như bán vũ khí, tăng viện trợ, kết liên minh phòng thủ, và thực sự họ
đã tiến hành một số biện pháp này. Nhưng vấn đề là các nước Đông Nam Á có muốn
chống lại Trung Quốc không hay vẫn muốn “đu dây.” Trong trường hợp Đông Nam Á
chỉ muốn đu dây, mọi cố gắng của Mỹ đều có rất ít hiệu quả.
Một vấn đề nữa là chính
sách của Mỹ nhằm phục vụ lợi ích của Mỹ trên hết. Do đó, các nước Đông Nam Á
không nên đòi hỏi Mỹ “giúp” mà phải nghĩ làm sao để Mỹ thấy được và có quyền lợi
trong việc ngăn chặn Trung Quốc ở biển Đông.
***
Ngày 23 tháng 7 năm 2020, Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Pompeo nói đây là lúc thế giới phải chọn đứng về một bên, tự do
hay chuyên chế. Chúng ta có thể hiểu thông điệp của ông Pompeo như
thế nào? Ông nhận xét như thế nào về “sự chọn bên” của Việt Nam trong thế kỷ 20
và hiện nay?
Thông điệp của ông Pompeo
là vấn đề chọn bên không phải chỉ liên quan đến quyền lợi mà còn liên quan đến
niềm tin vào tương lai của thể chế dân chủ so với độc tài. Nếu tin vào dân chủ
thì nên đứng về phía Mỹ và ngược lại (chú ý từ “chọn bên” hay “đứng về một bên”
không có nghĩa là “đi theo đuôi”, có hàm ý chủ động và tích cực).
Nhưng theo suy nghĩ của
chủ thuyết cộng sản dựa trên đấu tranh giai cấp và đại diện bởi Lê Nin, Stalin
và Mao Trạch Đông, thì chế độ cộng sản mới thực sự là “dân chủ” vì chính quyền
(theo lý thuyết) thuộc về giai cấp công nông chiếm đa số trong dân chúng. Đây
là lý do tại sao Lê Nin nói nước Liên Xô dân chủ gấp triệu lần các nước tư bản.
Nhưng “dân chủ” dưới chế độ cộng sản thực ra chỉ là lập luận suông, vì không có
cơ chế hiệu quả để người dân có thể thực sự làm chủ.
Các lãnh tụ cộng sản của
Việt nam vào thập niên 1940s có thể thực sự tin rằng chủ thuyết của họ “dân chủ”
hơn. Niềm tin mù quáng của
họ giải thích việc họ chọn làm “người lính xung kích” của phe Xã hội chủ nghĩa
do Liên Xô đứng đầu, vào cuối thập niên 1940s, ngay cả khi chưa được Liên Xô
công nhận.
Họ áp đặt “chuyên chính
vô sản” mà thực tế là áp chế độ công an-tuyên giáo-quân đội-đảng đoàn lên xã hội,
trước tiên là để thanh toán đối thủ chính trị, sau đó để kiểm soát trí thức và
cả công nông, bắt tất cả phải làm việc cho nhà nước, phải trung thành với đảng,
phải làm theo nói leo, v.v… Chọn lựa hệ thống này có lợi cho đảng cầm quyền và
giai cấp thống trị (hiện nay là khoảng 3-4 triệu đảng viên) và đã giúp họ duy
trì quyền lực từ đó đến nay.
Giờ đây họ vẫn tuyên bố
Việt nam là nước dân chủ (“dân chủ đến [như Việt nam] là cùng!”) bất chấp sự thật
là chế độ công an-tuyên giáo-quân đội-đảng đoàn vẫn còn nguyên. Dĩ nhiên họ sẽ không bao giờ chọn
đứng về phía Mỹ vì lý do tin vào nền dân chủ kiểu Mỹ. Nhưng họ cũng có
thể nhích lại gần hơn với Mỹ vì quyền lợi hay vì sợ dân chúng phản đối gây mất
uy tín chế độ. Làm như vậy thì họ vẫn giữ được quyền hành nhưng tương lai thể
chế dân chủ ở Việt nam vẫn mịt mờ.
***
Đã có nhiều phản hồi đối với bài phát biểu của Ngoại
trưởng M. Pompeo, trong đó có nhiều phản hồi không tích cực, chẳng hạn như Thomas
Wright ở Brookings Institution, James
Palmer ở Foreign Policy. Trong số các bài phê bình ông Pompeo, có
bài phủ nhận sự nguy hiểm của Trung Quốc, như bài của Richard
Haass trên Washington Post. Còn ông đánh giá như thế nào về bài phát
biểu của ông Pompeo và các bài phản biện nói trên?
Những người phê phán ông
Pompeo chủ yếu chỉ ra sự bất nhất trong lời nói và việc làm của chính quyền
Trump – và họ không sai. Rõ ràng chính sách của Trump và Pompeo đối với Trung
Quốc có động cơ chính trị liên quan đến bầu cử tổng thống cuối năm nay.
Nhưng mặt khác Pompeo
cũng nói lên một tư tưởng ngày càng được giới chính khách và trí thức Mỹ ủng hộ:
đó là tư tưởng coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược của Mỹ và Mỹ cần có chính
sách cụ thể để ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới.
Tôi đánh giá tư tưởng này
có mặt tích cực đối với quyền lợi của quốc gia Mỹ nếu những người cổ suý nó, dù
là Pompeo hay ai khác, đưa ra được những đường lối có hiệu quả và không dẫn đến
chiến tranh.
Tạp
chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin chân thành cảm ơn GS. Vũ Tường.
No comments:
Post a Comment