Nguyễn
Thanh Việt - Time
Ian Bùi dịch
27/06/2020
Lời
dịch giả: Đây là phần 1 bài chính luận của Nguyễn Thanh Việt
đăng trên tạp chí Time số ra ngày 6 tháng 7, 2020, tựa đề “Asian Americans
Are Still Caught in the Trap of the ‘Model Minority’ Stereotype. And It Creates
Inequality for All” — “Người
Mỹ gốc Á vẫn còn kẹt trong cái bẫy định kiến của ‘thiểu số gương mẫu’, tạo sự bất
bình đẳng cho mọi người”. Vì bài viết khá dài, bản dịch được chia làm 5
kỳ.
Nguyễn Thanh Việt là một nhà văn từng thắng giải
Pulitzer và hiện là giáo sư đại học tại University of Southern California.
Một cửa tiệm của người Nhật ở Oakland, California,
năm 1944. Nguồn: Thư viện Quốc hội
I. -
Gương mặt Tou Thao cứ ám ảnh
tôi. Anh cảnh sát viên người Mỹ-gốc-Hmong đứng quay lưng lại suốt khoảng thời
gian 8 phút 46 giây trong lúc đồng nghiệp Derek Chauvin quỳ lên cổ George
Floyd, giết chết anh ta.
Trong video clip tôi được
xem, Tou Thao đứng phía trước màn hình, Chauvin hơi khuất đằng sau, đầu của
George Floyd bị đè sát đất. Người bên đường năn nỉ Tou Thao làm ơn can thiệp bởi
George Floyd đã bất động, như chính Floyd đã van nài anh không thở được.
Gương mặt Tou Thao giống
mà không giống gương mặt tôi. Cũng như gương mặt George Floyd giống mà không giống
gương mặt tôi. Kỳ thị chủng tộc khiến ta chú ý đến những sự khác biệt thay vì
những điểm tương đồng trên khuôn mặt. Và trong cuộc thí nghiệm luyện đan của nước
Mỹ, chủng sắc đã được pha trộn với bóc lột lao động để bào chế một hợp chất dễ
nổ của lợi nhuận và sự tàn ác.
Để phản ứng trước nạn kỳ
thị chủng tộc đặc hữu của nước Mỹ, những kẻ trong chúng ta từng bị bêu xấu vì
màu da đã gắn kết với nhau quanh sự dị chủng. Ta biến những gì người da trắng
không thích về mình thành niềm tự hào, cộng đồng và sức mạnh. Thế cho nên Tou
Thao và tôi đều là người “Mỹ gốc Á”, bởi cả hai đều là dân “Á châu,” vẫn khá
hơn bị gọi là người “Đông phương” hay “gook” [từ miệt thị lính Mỹ gọi Việt cộng].
Nếu như làm người “Đông phương” dễ bị nhạo, làm “gook” dễ bị giết, thì làm người
“Mỹ gốc Á” biết đâu ta được cứu vớt. Sức mạnh từ số đông của chúng ta — gắn kết
qua nhiều ngôn ngữ, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo, xuất xứ và bao nhiêu thứ khác
— là điểm cơ bản của dân Mỹ gốc Á.
Nhưng trong một thực tại
khác thì Tou Thao là người Hmong, còn tôi là người Việt. Anh ta từng là cảnh
sát viên, còn tôi là giáo sư đại học. Có thể nào vì đều là dân Á châu mà chúng
tôi sẽ vượt qua được biên giới của chủng tộc và giai cấp để đến với nhau? Có thể
nào vì là người Đông Nam Á, đều tới đây nhờ cuộc chiến người Mỹ mang sang nước
mình mà cái nhìn về thế giới của chúng tôi giống nhau? Tou Thao từng có bao giờ
nếm mùi kỳ thị bài-Á đã xếp chúng ta vào cái khung Á châu — dù ta có muốn hay
không?
Tôi muốn đi ngược về thời
điểm mà mấy ngày qua đang được tái diễn. Chẳng nhớ khi đó mình mấy tuổi, nhưng
tôi không bao giờ quên lúc đọc thấy hàng chữ: “Thêm một người Mỹ phải đóng cửa
tiệm vì người Việt Nam.” Đó là khoảng đầu thập niên 1980, tôi có lẽ chừng
12, 13 tuổi. Ai đó đã dán tấm bảng ấy lên một cửa hàng cách tiệm của ba mẹ tôi
không xa. Tấm bảng đã làm tôi hoang mang không ít, vì dẫu sinh ra ở Việt Nam
nhưng tôi lớn lên ở Pennsylvania và California, thấm nhuần văn hoá Mỹ: nào là
tàu Mayflower và người Pilgrims; cao bồi và mọi da đỏ; Audie Murphy và John
Wayne; George Washington và Betsy Ross; lời hứa Trung thành với Tổ quốc; bản
Tuyên ngôn Độc lập; quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc; bao nhiêu huyền
thoại, cũng như thần thoại, về Giấc Mơ Mỹ.
Người tị nạn Việt
Nam bước xuống phi trường Oakland tháng 4/1975. Nguồn: Ted
Streshinsky—Corbis/Getty
Một phần của giấc mơ đó
là chống cộng sản chuộng tư bản, điều này rất hạp với ba mẹ tôi. Ông bà lớn lên
ở vùng quê, nhà nghèo, tuy không được học cao nhưng nhờ cần cù buôn bán nên làm
ăn thành công. Năm 1975 ba mẹ tôi rời Việt Nam để trốn cộng sản, bỏ lại tài sản
và gần hết của cải. Với những gì họ mang theo được — gồm một ít tiền và vàng được
may giấu trong quần áo — ba mẹ tôi mua lại một căn nhà gần xa lộ ở San Jose, và
vào năm 1978 mở cái chợ Việt Nam thứ nhì trong vùng. Tràn đầy lạc quan cùng nỗi
nhớ, họ đặt tên chợ là New Sài Gòn.
Giờ tôi đã lớn tuổi hơn
ba mẹ khi ông bà phải làm lại cuộc đời trên đất Mỹ với vốn liếng Anh ngữ vô
cùng ít ỏi. Trong ký ức tôi ba mẹ mình đã làm được điều gần như không tưởng. Giữa
thời đại virus corona này, tôi còn chưa biết tự may cho mình cái khẩu trang hay
tự đi chợ để nấu ăn. Vậy mà ba mẹ tôi không những đã sống sót qua chiến tranh lại
còn phải tranh sống trong một đất nước hoàn toàn xa lạ, phải tự học và đọc giấy
tờ thế chấp bằng tiếng Anh, ghi danh cho anh em tôi đến trường, thi lấy bằng
lái xe. Nhưng chẳng có quyển cẩm nang nào để hướng dẫn họ mua một cửa tiệm
không có treo bảng bán. Họ phải tự gọi điện thoại cho những người không hề quen
biết, lèo lái qua bao cơ quan chính phủ để thuyết phục người chủ sang tiệm lại
cho mình, trong khi bản thân họ vẫn chưa thoát khỏi cơn chấn thương của việc mất
nước, mất nhà cửa, bỏ lại sau lưng bao nhiêu người thân. Ba mẹ tôi vừa xây được
cái chợ thì bà Ngoại tôi mất. Mẹ tôi gần ngã quỵ khi được tin.
Kẻ viết tấm bảng ấy bằng
cách nào đó nhìn những người giống ba mẹ tôi thấp hơn con người, chẳng khác nào
kẻ thù. Vì vậy mà tôi
không hề ngạc nhiên trước cơn sóng kỳ thị bài-Á hiện đang nổi lên ở Mỹ.
Buồn nôn thì có, khi nghe tin một phụ nữ bị tạt át-xít trước cửa nhà; hai cha
con bị kẻ lạ dùng dao chém ở Sam’s Club; bao nhiêu người bị gọi là “đồ khuẩn
Tàu”, “Chink virus”, “về Tàu mà ở” dù họ chẳng phải gốc Tàu; bị nhổ nước miếng
vào mặt vì là dân Á châu; nhiều người không dám ra khỏi nhà, không chỉ vì sợ
lây bệnh mà còn vì sợ bị chửi rủa, tấn công, hoặc phải đón nhận những ánh mắt
khó chịu. Nhà thơ/nhà văn Cathy Park Hong đã ghi chép lại các trường hợp trên,
cô viết: “Chúng ta không mắc dịch virus corona. Chúng ta là virus corona”.
(Còn tiếp)
Sự kỳ thị ngày nay bắt đầu
ở cấp chính quyền cao cấp nhất, là tổng thống Hoa Kỳ, Donald Trump. Chính sách
bài trừ di dân là điển hình của sự kỳ thị. Người da trắng không muốn làn sóng
da màu gia tăng thêm ở Mỹ, vì sự gia tăng dân số của dân da màu sẽ tước đoạt vị
thế chính trị áo đảo của họ. Thực sự đó là cố gắng đi ngược giòng.
-----------------------------
Nguyễn Thanh Việt - Time
Ian Bùi dịch
28/06/2020
Tiếp theo phần 1
Lời
dịch giả: Đây là phần 2 bài chính luận của Nguyễn Thanh Việt
đăng trên tạp chí TIME số ra ngày 6 tháng 7, 2020, tựa đề “Asian Americans Are
Still Caught in the Trap of the ‘Model Minority’ Stereotype. And It Creates
Inequality for All” — “Người Mỹ gốc Á vẫn còn kẹt trong cái bẫy định kiến của
‘thiểu số gương mẫu’, tạo sự bất bình đẳng cho mọi người”. Vì bài viết khá dài,
bản dịch được chia làm 5 kỳ.
Nguyễn Thanh Việt là một nhà văn từng thắng giải
Pulitzer và hiện là giáo sư đại học tại University of Southern California.
Một lớp học cho trẻ
em Tàu ở New York năm 1900. Nguồn: Keystone-France/ Gamma-Keystone/ Getty
Images
II.-
Giờ nhìn lại, tôi chợt nhớ
những lần bị kỳ thị ở mức nhẹ, đôi câu bông đùa ngây ngốc của đám bạn trường
Công giáo, như “Có phải họ của mày là Nam?” hoặc “Thời chiến mày có đeo AK-47
hông?” hay những câu tục tĩu hơn.
Tôi thắc mắc, không biết ở
Minnesota Tou Thao có từng bị giễu chọc kiểu vậy? Anh ta nghĩ gì về trường hợp
Fong Lee, người Mỹ-gốc-Hmong, 19 tuổi, bị bắn 8 viên đạn, 4 phát từ sau lưng, bởi
cảnh sát viên Jason Anderson của Minneapolis hồi năm 2006? Anderson được xử trắng
án, bồi thẩm đoàn toàn người da trắng.
Chạm trán nạn kỳ thị
bài-Á từ dân da trắng, người Hmong, đa số là tị nạn chiến tranh đến Mỹ vào thập
niên 1970-80, thường tái định cư tại nhiều khu dân cư khác nhau trong thành phố,
một số sống trong các khu vực chủ yếu người da Đen, nơi họ cũng bị kỳ thị. Gần
đây Yie Vue viết:
“Có rất nhiều câu chuyện
về người Hmong bị đánh phá, cướp bóc, hăm doạ bởi hàng xóm da Đen. Người Hmong
và người da Đen từng sống chung trong những khu phố nghèo. Đôi bên vẫn còn nhiều
sự hiểu lầm và thiên kiến ăn sâu trong tư tưởng qua nhiều thế hệ”.
Thế nhưng khi Fong Lee bị
giết, các nhà đấu tranh da Đen liền lên tiếng. “Họ là tiếng nói lớn nhất ủng hộ
chúng tôi,” em gái của Fong Lee kể. “Họ không hỏi trước. Họ tự động đến.”
Không như những kỹ sư hay
bác sĩ đa phần đến từ Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ — thiểu số gương mẫu
trong trí tưởng tượng của người Mỹ — nhiều người tị nạn Hmong đến từ các thôn
làng ở Lào bị tàn phá bởi chiến tranh. Tâm lý đã bị chấn thương, họ còn bị đặt
trong một môi trường nghèo khổ mới với một lịch sử đàn áp chủng tộc phức tạp mà
hầu hết không hiểu rành.
Ngay cả những người Hmong
lên án Tou Thao và ủng hộ phong trào Black Lives Matter cũng nhấn mạnh họ không
muốn bị xét qua lăng kính của thiểu số gương mẫu, hay bị chụp lên đầu cảm giác
tội lỗi tự đấm ngực của người Mỹ-gốc-Á cấp tiến như một biểu tượng của sự đồng
loã. Mục sư Ashley Gaozong Bauer, gốc Hmong, viết: “Chúng tôi phải chịu đựng
chung nỗi xấu hổ cùng thiểu số gương mẫu. Nhưng có bao giờ cộng đồng Mỹ gốc Á sẻ
chia những chuyện đau lòng hay nỗi khổ tâm của người tị nạn Hmong, nhất là khi
họ bị đe doạ trục xuất?”
Giống như người Hmong,
nhiều người Việt như tôi cũng bị đau khổ vì chiến tranh, và cũng có người đang
bị hăm he trục xuất. Nhưng không như người Hmong, rất nhiều người Việt tị nạn,
dù cố ý hay không, đã trở thành thiểu số gương mẫu, trong đó có tôi. Những màn
kỳ thị cấp thấp mà tôi đã gặp xảy ra trong một môi trường tương đối cao cấp.
Khi tôi bước chân vào ngôi trường trung học tư thục dành riêng cho con nhà giàu
Mỹ trắng thì đám học sinh Á châu ít ỏi chúng tôi đã nhận ra thông điệp khá rõ.
Chúng tôi thường tụ tập trong một góc riêng của sân trường và gọi mình là “the
Asian invasion” — cuộc xâm lược của người Á châu, khi thì chúng tôi phá ra cười,
lúc chỉ cần nheo mắt hiểu ngầm. Nhưng nếu đó chỉ là câu đùa giỡn vô hại của đám
trẻ tụi tôi lúc ấy, thì sau này nó hoá ra lời tiên tri.
Cách đây hai năm tôi có dịp
quay lại trường cũ để diễn thuyết về đề tài sắc tộc. Trong đám nam sinh 1600 đứa
hôm ấy, dân Á châu rất đông tuy chưa có thể gọi là xâm lược hoàn toàn, đó chỉ
là mới 30 năm sau. Không
còn là mối đe doạ “xâm lược Á châu” nữa, giờ đây chúng ta là thiểu số gương mẫu:
người đồng môn đáng kết bạn, người hàng xóm ai cũng thích có, gã da màu không
làm người xung quanh phải lo sợ.
Nhưng có thiệt vậy không?
Sau buổi diễn thuyết vài em học sinh Mỹ-gốc-Á đã đến gặp tôi và nói các em vẫn
còn cảm thấy nó. Nó. Cái cảm giác vẫn bị cho là người ngoài, nhất là những em
theo đạo Hồi hoặc bị nghi là đạo Hồi, hoặc các em da nâu, hoặc người Trung
Đông. Nó. Sự kỳ thị chủng tộc không chỉ là tấn công lên thể xác.
Tôi chưa bao giờ bị tấn
công lên thể xác chỉ vì mình gốc Á. Nhưng tôi vẫn bị tấn công hoài trên làn
sóng điện, bởi những câu giễu dở kiểu “ching-chong” của mấy tay thợ nói trên
radio, bởi các nhân vật Á châu côn đồ hoặc hài hước rập khuôn kiểu “japs”,
“gooks”, “chinks” trong phim chiến tranh hay phim hề của Mỹ. Như nhiều người Mỹ
gốc Á khác, tôi cũng tập làm quen với cảm giác xấu hổ bởi những thứ làm cho
mình khác người bản xứ: đồ mình ăn, tiếng mình nói, kiểu tóc mình cắt, quần áo
mình mặc, mùi của thân thể, và cả cha mẹ mình luôn.
Nhưng điều khiến cho cảm
giác này tệ hại hơn nữa, Cathy Hong viết, là chúng ta lại lừa dối chính mình rằng
nó chỉ là những “cảm xúc thứ yếu”. Ta đâu có cảm xúc chính đáng nào, hay có quyền
than phiền về vấn đề chủng tộc khi ta đã được xem là thiểu số gương mẫu và được
xã hội Mỹ chấp nhận? Cùng lúc, sự bài-Á vẫn là kho chứa những cảm xúc trọng yếu
mà người Mỹ sẵn sàng đem ra dùng mỗi khi có khủng hoảng.
Người Mỹ gốc Á vẫn chưa
có quyền lực chính trị mạnh đủ, hay có mặt trong nền văn hoá bản địa nhiều đủ,
để khiến những người bạn Mỹ của chúng ta phải do dự khi thốt ra những tư tưởng
nặng mùi kỳ thị. Vì chúng ta chưa quan trọng đủ, cũng như vì vị trí lịch sử của
chúng ta bao lâu nay vẫn là người ngoại quốc trên nước Mỹ, nên tổng thống Hoa Kỳ
và nhiều người khác vẫn nghĩ họ có thể gọi COVID-19 là “khuẩn Tàu”, là “kung
flu”.
(Còn tiếp)
--------------------------
01/07/2020
III.-
Người Á đông nên ở Á
châu, đó là nền tảng của sự kỳ thị bài-Á, không cần biết chúng ta đã sống ở đây
bao nhiêu thế hệ hay chúng ta đã làm gì để chứng tỏ mình thuộc về xứ sở này dù
không sinh ra tại đây. Đổ lỗi cho dân Á đông ở Á châu, hay ở những quốc gia không
thuộc Á châu, vẫn là cách kỳ thị hiệu nghiệm nhất xưa nay; ở Mỹ nó bắt đầu từ
thế kỷ 19.
Vào thời đó nước Mỹ cho
phép hàng ngàn người Tàu nhập cư để giúp xây đường hoả xa xuyên lục địa. Một
khi không cần đến họ nữa, các chính trị gia, nhà báo và doanh gia Mỹ dùng chiêu
bài chủng tộc để biến hình ảnh họ thành xấu xa hòng xoa dịu khối công nhân da
trắng đang cảm thấy việc làm của mình bị đe doạ. Hậu quả là nhiều người Tàu đã
bị đám đông da trắng hành hình [lynch], vô số người Tàu phải bỏ trốn, nhiều khu
phố Tàu bị đốt phá.
Đỉnh điểm của sự thù ghét
này là Anti-Chinese Act năm 1882, đạo luật kỳ thị chủng tộc đầu tiên trong lịch
sử Hoa Kỳ; nó biến người Tàu nhập cư thành những kẻ di dân lậu đầu tiên của đất
nước này. Bộ Công dân và Di trú được thành lập để kiểm soát di dân từ Trung Hoa
và để truy lùng “paper sons” — những người làm giấy tờ giả để nhận mình là con
cái của người nhập cư hợp pháp.
Nhà nghiên cứu khoa học
chính trị Janelle Wong cho biết, “mặc dù nhiều di dân từ Âu châu cũng bị thù
ghét, nhưng chưa bao giờ họ bị kềm kẹp bởi những thủ tục pháp lý về di trú và
quyền công dân dựa trên chủng tộc như người Mỹ gốc Á phải hứng chịu.”
Lịch sử nước Mỹ được đánh
dấu bởi chu kỳ các đại doanh nghiệp cần lao động rẻ tiền từ Á châu, làm cho tầng
lớp lao động da trắng cảm thấy bị đe doạ. Nỗi sợ ấy còn được khơi động bởi các
nhà chính trị và cơ quan truyền thông chuyên dùng sắc tộc làm mồi, dẫn đến những
đại hoạ như đạo luật Anti-Chinese Act hay việc nhốt người Mỹ gốc Nhật vào các
trại tập trung năm 1942. Người viết tấm bảng mà tôi nhìn thấy hồi nhỏ, đổ lỗi
cho người Việt làm hại doanh nghiệp ở Mỹ, thật ra họ cũng chỉ thêm một dòng vào
câu chuyện “hiểm hoạ da vàng” nằm sẵn trong những đầu óc đầy âu lo và sợ hãi của
dân Mỹ.
Sự thật là vào những thập
niên 1970 và 1980, downtown San Jose là một khu hoang phế, không ai muốn mở
thương nghiệp gì ở đó trừ người Việt tị nạn. Còn ngày nay thì người Mỹ đang cần
đến Trung Quốc và những nước Á châu là nguồn cung cấp đủ loại hàng hoá cho dân
chúng có cơ hội sống Giấc Mơ Mỹ, xong họ quay lại đổ thừa nước Mỹ bị mất việc,
nền kinh tế Mỹ bị tổn thương là do cạnh tranh từ Trung Quốc.
Đổ lỗi cho nước ngoài hay
cho một nhóm dân thiểu số, thậm chí cho những chính trị gia đã thương lượng các
thoả thuận mậu dịch, vẫn dễ hơn là chỉ đích danh quyền lực thực sự: các công ty
và những người làm kinh tế ở cấp cao đã dịch chuyển công ăn việc làm để kiếm lợi
nhuận tối đa, không màng gì đến người lao động ở Mỹ phải nhận lãnh hậu quả. Chấp
nhận sự thật này là điều vô cùng khó nuốt cho đại đa số công chúng Mỹ, chĩa mũi
dùi vào dân Á châu đơn giản hơn nhiều.
Đối mặt làn sóng công luận
chỉ trích người gốc Á không “American” đủ, Andrew Yang, từng là ứng cử viên tổng
thống, đề nghị giải pháp: “Chúng ta, người Mỹ gốc Á, cần thực hiện và thể hiện
bản chất ‘American’ của mình bằng mọi hình thức … Chúng ta phải cho mọi người
thấy rằng mình là công dân Mỹ và sẵn sàng phục vụ nhu cầu của đất nước.” [1]
Nhiều người Mỹ gốc Á đã cảm thấy bị xúc phạm bởi câu nói trên, cho rằng nó chẳng
khác nào lời xin lỗi về sự có mặt của người gốc Á ở Mỹ.
Những người chỉ trích
Andrew Yang đưa ra nhận xét rằng vào những thời điểm tinh thần bài-Á ở Mỹ lên
cao độ, nhiều người gốc Á thiếu điều lấy cờ Mỹ quấn quanh mình; quyên góp giúp
đỡ cộng đồng da trắng trong những trường hợp nguy khẩn; họ thậm chí đã bỏ mình
vì nước Mỹ trong bao nhiêu cuộc chiến. Và có gì “American” hơn là gia nhập lực
lượng cảnh sát? Khi chọn nghề cảnh sát, Tou Thao có bao giờ nghĩ đến chuyện chứng
minh mình là “American”?
Ảnh: Tại một trại tập
trung người Nhật ở Utah, 1945. Nguồn: Apic/ Getty Images
Xem ra những nỗ lực này vẫn
không đủ để ngăn chặn nạn kỳ thị bài-Á hết sức cứng đầu. Kêu gọi mọi người hy
sinh nhiều hơn nữa chỉ lặp lại cảm giác người Mỹ gốc Á không phải là “American”
và lúc nào cũng phải chứng tỏ mình là “American”, điều lẽ ra không cần thiết.
Thời Đệ Nhị Thế Chiến, người Mỹ gốc Nhật đã phải chứng minh mình “American” bằng
cách đánh nhau với quân Đức và Nhật trong khi gia đình họ đang bị chính quyền bắt
nhốt, nhưng người Mỹ gốc Đức hay Ý không phải chứng minh họ “American” đến mức
đó. Tuy cũng có người Mỹ gốc Đức và Ý đã ở tù vì bị tình nghi hoặc vì thật sự
không trung thành với nước Mỹ, nhưng chỉ có người gốc Nhật là bị bỏ tù hàng loạt,
chủng tộc là đặc điểm duy nhất đánh dấu họ là “không-American”.
Người Mỹ gốc Á kẹt giữa
hai lằn đạn, một bên xem ta chẳng khác nào người ngoài, một bên là cám dỗ làm đồng
minh với người da trắng trên đất nước được xây dựng bằng khái niệm da trắng thượng
tôn. Hậu quả là bệnh kỳ thị người da Đen (và da Nâu cũng như da Đỏ) lây lan sâu
rộng trong cộng đồng người Mỹ gốc Á.
Di dân và dân tị nạn, kể
cả người Á, hiểu rằng khi leo chiếc thang thành công ở Mỹ họ phải bắt đầu từ những
nấc thấp nhất. Nhưng cho dù thấp hèn cỡ nào chăng nữa, họ biết nước Mỹ luôn cho
phép họ đứng trên vai người da Đen, da Nâu và thổ dân da Đỏ. Trong lịch sử người
Mỹ gốc Á, dân Á Đông bao giờ cũng được người Mỹ trắng và Mỹ đen cho họ cơ hội
chọn bên trong cuộc đấu chủng tộc Trắng-Đen, và chúng ta thường chọn bên trắng
hơn. Người Mỹ gốc Á, dù tích cực phê phán những hành động bài-Á của thiên hạ,
không phải lúc nào cũng lên tiếng chống lại nạn kỳ thị người da Đen. Chúng ta
thường nhận mình thuộc nhóm da trắng và chọn đường lối giữ nguyên tình trạng
cũ.
Nhưng cũng có một số tiếng
nói của người Mỹ gốc Á kêu gọi liên kết cùng người da Đen và những người da màu
khác. Từ nhà đấu tranh Yurri Kochiyama, người đã ôm Malcolm X trong lòng trước
khi ông tắt thở, cho đến Grace Lee Boggs, định cư tại Detroit và hoạt động hăng
say với người chồng da Đen là James Bogg để tổ chức sinh hoạt và công tác lý
thuyết.
Kochiyama và Boggs cũng
không phải là người gốc Á duy nhất lý luận rằng người Mỹ gốc Á không nên đứng một
mình hoặc chỉ cho mình. Cụm từ “Asian American” là do Yuchi Ichioka và Emma Gee
đặt ra trong thập niên 1960 và được sử dụng bởi các nhà hoạt động sinh viên, nó
được quần chúng biết đến rộng rãi qua một phong trào không chỉ để bảo vệ cộng đồng
gốc Á trước nạn kỳ thị hay xác minh một căn cước Á Đông.
Những nhà hoạt động Mỹ-gốc-Á
thời đó xem phong trào của họ mang tính cách chống chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa tư bản. Lấy cảm hứng từ Hội nghị Bandung năm 1955, cuộc nhóm họp của
một số quốc gia Phi châu và Á châu, và từ Mao, họ đặt mình vào giữa cuộc đấu
tranh toàn cầu chống lại chủ nghĩa thực dân cùng với những dân tộc bị trị tại
các nước thuộc địa. Mao cũng đã tạo cảm hứng cho một số người Mỹ gốc Phi cực
đoan, và cuối thập niên 1960 là thời điểm mà các nhà đấu tranh mọi màu da sắc tộc
nhìn thấy mình là một phần trong một phong trào của Thế giới Thứ Ba, liên kết sự
trỗi dậy của các sắc dân thiểu số với cuộc nổi dậy toàn cầu chống tư bản chủ
nghĩa, thực dân, kỳ thị chủng tộc, và chiến tranh.
IV.-
Những phong trào của Thế
giới Thứ Ba và của người Mỹ-gốc-Á trong thập niên 1960 đã để lại một số di sản
mà các nhà hoạt động và học giả Mỹ-gốc-Á hôm nay vẫn còn sử dụng. Những người
này cho rằng người Mỹ gốc Á, vì từng trải qua một lịch sử bị kỳ thị và bóc lột
lao động, có tiềm năng trực diện một cách triệt để những khía cạnh tồi tệ nhất
của xã hội Mỹ. Nhưng dân Mỹ-Á có 22 triệu người, khoảng 6% dân số nước Mỹ, đến
từ nhiều quốc gia, gồm nhiều sắc tộc và nguồn gốc cũng như thời điểm di cư và định
cư khác nhau. Thành thử chúng ta có quá nhiều quan điểm khác biệt, phân toả ra
nhiều hướng.
Người Mỹ gốc Á hôm nay có
thể chọn một trong hai con đường: một tương lai cấp tiến từng được phác hoạ bởi
các phong trào Mỹ-Á trước đây, hoặc mô hình người tiêu thụ với biểu tượng uống
trà Boba và nghe nhạc K-pop. Mặc dù người Mỹ gốc Á thường nghiêng về phe Dân Chủ
hơn, nhưng khó mà nói tất cả đều thuộc thành phần cấp tiến.
Nhưng điều có thể thống
nhất người Mỹ gốc Á và dễ làm ta nổi giận là sự kỳ thị và giết chóc, bắt đầu bằng
các cuộc bạo hành nhắm vào người Tàu trong thế kỷ 19, dài đến những vụ như tay
súng da trắng giết năm trẻ em người Việt và Cambodia tại một trường học ở
Stockton, California, năm 1989, và một tay súng da trắng khác bắn chết sáu người
Sikh tại một ngôi đền ở Wisconsin năm 2012.
Câu chuyện về Vincent
Chin, bị giết năm 1982 bởi công nhân ô-tô da trắng ở Detroit vì họ tưởng anh ta
là người Nhật, vẫn còn được dùng để kích động tinh thần. Hoặc là vụ nổi loạn,
hay nổi dậy, tại Los Angeles năm 1992, khi phố Hàn Koreantown bị người da Đen
và da nâu đốt phá trong lúc cảnh sát L.A. đứng nhìn. Doanh nghiệp người Hàn đã
phải hứng chịu một nửa thiệt hại trong vụ bạo loạn ấy. Hai người Mỹ gốc Á đã
thiệt mạng.
Những điều đó đều đáng để
ta đau buồn, thương tiếc và tức giận, cũng như những điều sau: 61 người khác bị
thiệt mạng trong sự kiện đó không phải là người Á, đa số da Đen hoặc nâu. Và
trong số 12,000 người bị bắt thì phần lớn cũng là Đen hoặc nâu. Tóm lại, người
Hàn bị thiệt hại về kinh tế cũng như tinh thần và tâm lý kéo dài nhiều năm trời
sau đó. Nhưng ít ra họ còn có tài sản để mất, và cái giá họ phải trả cho bản chất
“American” bấp bênh của mình, đo lường bằng sự hy sinh tính mạng và tự do vẫn
không bằng mất mát của khách hàng hay những người hàng xóm da Đen, da nâu của họ.
Người Hàn xuống đường
tại Koreantown ở L.A. tháng 4, 1992 để biểu dương “Korean Pride”. Nguồn: Ted
Soqui—Corbis/Getty Images
Nhiều người Mỹ gốc Hàn rất
bực tức vì cảm thấy nhà chức trách và lãnh đạo thành phố đã dùng họ làm vật tế
thần để ngăn chặn không cho hỗn loạn lan qua các khu da trắng, bỏ mặc cho dân Mỹ-Hàn
gánh trọn cơn bức xúc tiềm ẩn bao lâu nay trong cộng đồng Đen và La-tinh ở Los
Angeles do tình trạng nghèo khổ, phân biệt chủng tộc và bạo hành bởi cảnh sát.
Sau trận hỗn chiến ấy, Phố Hàn được xây dựng lại, nhưng một số doanh nghiệp đã
không phục hồi nổi. Một phần số tiền được đổ vào công cuộc hồi phục Koreantown,
trớ trêu thay, lại đến từ Nam Hàn, đất nước mà từ nhiều thập niên qua đã lột
xác để trở thành một cường quốc kinh tế. Tư bản Nam Hàn, và dần dà văn hoá Nam
Hàn phổ thông, đặc biệt là phim ảnh và nhạc K-pop, bỗng dưng được ưa chuộng hơn
những thứ mà người di dân tìm Giấc Mơ Mỹ mang từ Hàn Quốc sang trước đây. Ngay
cả khi đời sống kinh tế của người Hàn ở Mỹ vẫn còn nhiều khó khăn, nó vẫn bị
che khuất bởi cái nhìn của người Mỹ về sự thành công của dân gốc Á qua lăng
kính tư bản và cạnh tranh.
Định nghĩa của thiểu số
gương mẫu là vầy: trong mọi trường hợp hãy cố giữ cho mình vô hình vì mình cốt
yếu chỉ làm tròn nghĩa vụ, như ba mẹ tôi chẳng hạn, cho tới khi mình trở nên
siêu hữu hình vì quá thành công, như những người chủ tiệm gốc Hàn nọ. Khi ấy
thiểu số gương mẫu bỗng trở thành “cuộc Á xâm”, và cộng đồng thiểu số gương mẫu
Mỹ-gốc-Á trước kia được dùng làm gương cho sự thành công của chủ nghĩa tư bản
nay bị đổ lỗi cho sự thất bại của nó.
Nói thế không có nghĩa là
chúng ta bị tư bản chủ nghĩa chà đạp. Bị đặt vào chính giữa cuộc đấu tranh chủng
tộc hiểm hóc của nước Mỹ, nhìn chung chúng ta nhận được nhiều lợi ích từ chủ
nghĩa tư bản hơn người da Đen, da nâu và thổ dân da Đỏ, dẫu nhiều người Mỹ gốc
Á có thể vẫn thuộc hàng nghèo khổ hay ngoài lề xã hội. Thỉnh thoảng cũng có người
gốc Á bị cảnh sát giết, nhưng không thể nào so sánh với chuyện thường xuyên xảy
ra đối với người da Đen, da nâu, hoặc thổ dân da Đỏ.
Và tuy đôi khi ta cũng bị
kỳ thị hay phân biệt chủng tộc, dân da Vàng thường sống giữa khu da Trắng nhiều
hơn người da Đen hay da Đỏ. Tương xứng với mức độ thừa hưởng một số đặc quyền
nhờ màu da của mình là sự a tòng của chúng ta trong việc giữ vững một cơ chế đã
và đang trù ép người da Đen, da Nâu, da Đỏ chỉ vì chủng sắc của họ.
Nhìn lại vị thế bấp bênh
của chúng ta trong xã hội Mỹ, không khó hiểu tại sao nhiều người da Vàng có nhu
cầu chứng minh mình “American”, hoặc mơ tưởng được chấp nhận bởi một xã hội do
người da trắng làm chủ, hay lên án Tou Thao không phải người của “tụi tao”.
Nhưng khi người Mỹ gốc Á dùng đại danh từ “chúng tôi” theo nghĩa rộng, với gốc
gác từ Đông Á sang Tây Á, từ Nam Á qua Đông Nam Á, chúng tôi đó là chúng tôi
nào?
Những gương mặt trí thức
da màu đa văn hoá trong chính quyền là mốt chính trị đại biểu thanh lịch với mục
tiêu đồng hoá. Từ lâu bị loại ra ngoài đời sống Mỹ, bị đánh dấu là ngoại nhân
không thể hội nhập và bị xem là người ngoại quốc, luôn bị hỏi anh từ đâu tới,
cũng như được khen nếu nói được tiếng Anh lưu loát, các gia đình di dân Á châu
và con cháu họ luôn phấn đấu nhiệt tình để có thể gọi nơi này là quê hương.
Nhưng từ góc nhìn của nhiều người da Đen, da Nâu và da Đỏ thì đất nước này được
xây dựng bằng việc ông bà họ bị bắt làm nô lệ, bị tước đoạt tài sản, buộc phải
rời bỏ quê cha đất tổ, bị giam cầm, bị phân chủng, bị lạm dụng, bị bóc lột lao
động và bị thực dân đô hộ.
Đối với nhiều, nếu không
nói là tất cả, người da Đen, da nâu và thổ dân thì Giấc Mơ Mỹ vừa là hài kịch vừa
là bi kịch. Chủ nghĩa đa văn hoá có thể làm chúng ta cảm thấy dễ chịu, nhưng nó
sẽ không cứu nổi Giấc Mơ Mỹ; các chính sách bồi thường nô lệ, tái phối kinh tế,
cắt giảm ngân sách hoặc bãi bỏ lực lượng cảnh sát may ra.
gười Hmong biểu
tình trước toà thị chánh tại Minneapolis, 31/5/2020. Nguồn: Brooklynn
Kascel—Polaris
Nếu như kinh nghiệm của
người Hmong gần gũi với sự thất bại của Giấc Mơ Mỹ hơn, hà cớ nhiều người Mỹ-Á
vẫn tìm kiếm cho mình một phần của nó? Nếu ta muốn gọi nước Mỹ là quê hương thì
ta phải chấp nhận mọi thứ thuộc về đất nước này, niềm hy vọng cùng với đạo đức
giả, lợi nhuận cùng với nỗi thống khổ, tự do cùng với mất mát, một thể chế thống
nhất bất toàn cùng với tình trạng phân chủng hiện hữu.
Vì vậy muốn làm người Mỹ
gốc Á là một sự mâu thuẫn, bởi làm người Mỹ-Á là một điều kiện cần nhưng không
đủ. Làm người Mỹ gốc Á là điều cần thiết vì họ tên và nguồn cội cho ta một cái
gì đó có thể dùng trong việc tổ chức, cho phép ta cảm nhận nhiều thứ hơn là cái
“cảm xúc thứ yếu.”
Tôi còn nhớ rất rõ lúc
mình trở thành người Mỹ gốc Á, trong năm thứ nhì ở đại học, khi tôi chuyển sang
UC Berkeley. Vừa đặt chân vào trường, tôi bị đánh phủ đầu ngay lập tức bằng một
cú sét tri thức và chính trị. Qua những lớp học về Mỹ-Á và cùng các bạn đồng
môn tham gia những sinh hoạt trong Liên minh Chính trị Người Mỹ gốc Á, tôi
không còn là một gã vô danh trong “cuộc Á xâm” nữa. Tôi là một người Mỹ gốc Á.
Tôi có mặt mũi, có tên tuổi, có tiếng nói, có phong trào, có lịch sử, có nhận
thức, và có cơn giận dữ. Chính cơn giận dữ ấy là cảm giác trọng yếu thúc đẩy
tôi quyết liệt từ chối biện hộ cho trò chính trị phục tùng, một trong những yêu
sách của việc chấp nhận Giấc Mơ Mỹ một cách mù quáng.
Nhưng cơn thịnh nộ trong
tâm điểm của phong trào Mỹ-Á — một sự tức giận chính đáng đòi hỏi công lý, được
công nhận và bồi đáp — đã không đủ sức ngăn cản việc phong trào dần biến thành
một thực thể khác, tuy cũng có sức mạnh nhưng đã bị pha loãng. Trong dạng loãng
nhất của nó, Mỹ-Á là một thực thể dễ bị tấn kích bởi tư duy kỳ thị người da
Đen, chấp nhận chế độ thuộc địa, tiếp nhiên liệu cho cỗ máy chiến tranh bất diệt
mà người dân Mỹ, dù theo đảng Cộng Hoà hay Dân Chủ, đều chấp nhận như một bộ phận
không thể tách rời của đất nước.
___
[1] Xem thêm bản dịch bài
viết của Andrew Yang: Dịch Khuẩn và Liệu Pháp
No comments:
Post a Comment