Thiện
Ý
30/04/2020
Trước 12 giờ trưa ngày
30-4-1975, Tướng Dương Văn Minh trong chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
ngoài dự liệu của Hiến Pháp, đã đọc hiệu triệu trên đài phát thanh, truyền hình
ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng tại chỗ, chờ quân đội cộng sản
Bắc Việt đến tiếp quản. Tôi như chết lặng vài giây, bàng hoàng như muốn khóc vì
uất ức. Một điều khá bất ngờ mà có lẽ tôi cũng như hầu hết người dân sống dưới
chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam chưa bao giờ nghĩ đến.
Khi đó tôi đang có mặt tại
nhà ở chung cư Phạm Thế Hiển, Lô C, lầu 2, Quận 8 Saigon, với người mẹ già.
Trong khi người vợ trẻ mới sinh con gái đầu lòng đúng 20 ngày trước đó, (cháu
Quỳnh Như sinh ngày 7-4-1975) thì đã được bên ngoại đón từ nhà bảo sanh tư
Đức Chính trên đường Cao Thắng Quận Nhì, Saigon về ở nhà gia đình bố mẹ vợ trên
đường Tô Hiến Thành, Quận 10 Saigon để chị em tiện giúp đỡ, chăm sóc. Cùng có mặt
tại nhà tôi vào ngày 30-4-1975 còn có một người bạn là Trung Úy P. từ đơn vị ở
huyên Cầu Kẻ, Trà Vinh về ở nhà chúng tôi trước đó vài ngày. Anh P. là một bạn
đồng nghiệp từng dạy học chung tại trường Trung học tư thục Hưng Đức Banmêthuột (1966-1967), một
tỉnh lỵ trên Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam.
Khoảng sau 12:00 trưa
ngày 30-4-1975, cả hai chúng tôi và mẹ tôi cũng như nhiều người dân sống ở ba
lô chung cư A.B.C Phạm Thế Hiển đều ùa ra đứng ở hành lang hướng ra đường Phạm
Thế Hiển để xem “đoàn quân giải phóng tiến vào Saigon”. Toán quân đầu
tiên ăn mặc quần áo đen, mũ tai bèo, đi dép râu, có người mặc quần cụt đi chân
đất, vũ khí cá nhân hạng nhẹ, có lẽ là dân quân du kích hay quân chủ lực Miền
Nam của “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam” và “Chính phủ Cách Mạng
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”. Cả hai vốn là công cụ quân sự và
chính trị của đảng và chế độ cộng sản Bắc Việt. Đó là những bảng hiệu “ngụy
dân tộc” để tiến hành cuộc chiến tranh chống ngoại xâm bằng chiêu bài “chống
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.” Thế nhưng
ai cũng biết ý đồ của CSBV là cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam của chính quyền chính
thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, không phải giành độc lập dân tộc, mà cộng sản
hóa Miền Nam, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; đưa đất nước và dân tộc
vào vòng cương tỏa của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ
Nga-Tàu. Vì thế sau đó, là đoàn quân đồng phục quần áo rêu xám, mũ cối, trang bị
vũ khí cá nhân cũng như tập thể hạng nặng, tối tân. Tôi đoán có lẽ là quân đội
chính quy cộng sản Bắc Việt chi viện cho quân chủ lực miền và dân quân du kích ở
Miền Nam.
Nhìn đoàn quân ăn mặc lếch
thếch, vóc dáng hầu hết ốm o vì gian khổ, ăn uống thiếu thôn, tôi không khỏi
liên tưởng đến hình ảnh những người lính quân lực Việt Nam Cộng Hòa ăn mặc chỉnh
tề, vóc dáng khỏe mạnh, trang bị đầy đủ vũ khí tối tân, lòng như quặn đau, trí
như phẫn nộ về sự kết thúc chiến tranh không bình thường,bất công, phi lý. Một
sự kết thúc với kẻ yếu thắng kẻ mạnh, bên ngụy nghĩa thắng bên chính nghĩa.
Nhưng chỉ biết nuốt hận thở dài, vì mọi sự đã trễ, biết làm sao hơn, đành phải
chấp nhận thực tế như một sự an bài.
Trong lòng là vậy, nhưng
tôi và người bạn đứng gần, cũng như những người dân đứng trên các hành lang ba
khu chung cư như miễn cưỡng vẫy tay. Có kẻ hò vang vẫy chào đoàn quân cộng sản
chiến thắng đang từ các vùng nông thôn tiến vào thành phố Saigon. Đó có lẽ là do
mọi người đều có chung tâm trạng “trong héo, ngoài tươi”. Những nụ cười
gượng và những tiếng reo hò, vẫy tay dường như mọi người muốn che lấp một mặc cảm,
một tâm trạng hoag mang, sợ hãi mơ hồ ở tương lai bất định, xấu nhiều hơn tốt,
khi phải sống dưới chế độ mới của “bên thắng cuộc”, là chế độ cộng sản Bắc
Việt sẽ bị áp đặt nay mai, mới chỉ nghe nói rất tàn ác, chưa biết số phận mình
ra sao.
Sau một lúc đứng nhìn
đoàn quân cộng sản chiến thắng vào thành, P. ngỏ ý nhờ tôi chở bằng xe Honda đến
thăm người yêu nhà ở Ngã Tư Bẩy Hiền, trong trại gia binh Hoàng Hoa Thám, nằm
trong khu hậu cứ của Sư đoàn nhảy dù quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Vì cha nàng là
một hạ sĩ quan nhẩy dù ở hậu cứ lo về hậu cần. Người yêu của P. tên L. cũng là
bạn chung sở làm với vợ tôi, đã được chúng tôi giới thiệu cho P. sau hai người
yêu nhau.
Trên đường đi từ nhà, tôi
đã chở bạn P. bằng xe Honda dọc theo đường Phạm Thế Hiển qua cầu Chữ Y, qua một
số đường nối nhau là các đường Nguyễn Biểu, Trần Hưng Đạo Cộng Hòa, Hồng Thập Tự
đến ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt quẹo trái, trực chỉ Ngã Tư Bảy Hiền để
đến trại Hoàng Hoa Thám, hậu cứ của Sư đòan dù… Dọc đường, chúng tối thấy dân
chúng ùa ra hai bên đường rất đông. Nhưng những dãy nhà mặt tiền thì đều đóng cửa
im ỉm. Nhiều khúc đường bị kẹt làm ùn tắc giao thông khiến cả tiếng đồng hồ xe
chúng tôi mới đến được gần cổng nghĩa trang Đô Thành trên đường Lê Văn Duyệt.
Nhưng đến dây thì đường kẹt cứng vì lưu thông hai chiều ngược nhau đã đông như
nêm cối, lại gặp doàn xe tăng của quân đội CSBV di chuyển ngược chiều, từ hướng
Ngã Tư Bẩy hiển vào trung tâm thành phố Saigon. Vì vậy khi nhìn thấy một xác chết
trên đường được ai đó phủ một chiếc khăn đủ che kín mặt, phần thân thể máu thịt
bầy hầy vẫn lộ ra bên ngoài… Tôi vôi quay xe ngược lại, nói với bạn không thể
tiếp tục đến nhà người yêu của hắn được nữa, phải chờ qua ngày mai thôi.
Tôi chở P chạy về hướng Đại
lộ Trần Hưng Đạo, đến bùng binh Chợ Bến Thành, quẹo phải theo Trần Hưng Đạo về
hướng Chợ Lớn. Các con đường chúng tôi đi qua đều đông xe cộ đi lại, đôi chỗ kẹt
xe phải chậy chậm lại. Khi đi ngang qua đồn Cảnh sát Giao thông Đô Thành, chúng
tôi nghe nhiều tiếng súng nổ liên hồi, vội tấp xe vào lề coi động tĩnh, dựng
xe, núp sát vào các nhà dân chúng để tránh lạc đạn. Một lúc sau hỏi ra mới biết
một số thanh thiếu niên hiếu động đã lấy súng trong kho của cảnh sát giao thông
bắn chỉ thiên làm lủng nhiều lỗ trên trần nhà, không rõ có ai bị lạc đạn lạc chết
hay không. Một số người hôi của đang khuân vác những gì họ lấy được từ trụ sở cảnh
sát giao thông đô thành; có kẻ đem cả xe ba bánh đến chở những đồ vật nặng có
giá trị sử dụng với họ, như máy chữ, television, radio, tủ lạnh…
Trong khi đó, những nhà ở
dọc hai bên Đại lô Trần Hưng Đạo chúng tôi chạy qua hầu hết đều còn đóng cửa im
ỉm. Khi xe chạy qua một nhà may nằm xế Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia đô thành,
tôi chợt nghĩ ra trong đầu cần có một lá cờ về treo trước nhà sớm nhất để làm “lá
bùa hộ mệnh” đề phòng những kẻ vì tư thù hay muốn lập công với nhà cầm quyền
mới, có thể tố cáo láo với “chính quyền cách mạng” để hãm hại. Chúng tôi
nghĩ rằng, trong lúc tranh tối tranh sáng, nhìn thấy lá cờ “Giải phóng” nửa
xanh, nửa đỏ với ngôi sao vàng ở giữa, treo sớm trước nhà như thế những kẻ muốn
hãm hại mình có thể khựng lại không giám tố cáo bậy bạ. Vì thế, chúng tôi dừng
xe trước một nhà may gõ cửa và hỏi lớn tiếng có ai trong nhà không. Đợi một lúc
không thấy tiếng trả lời. Thằng bạn tôi phải đập cửa thật mạnh hai ba lần và hỏi
1ại có ai trong nhà không bằng giọng dân Quảng Bình, tôi nói tiếp tiếng Bắc, là
chúng tôi muốn nhờ may dùm cho vài lá cờ. Lập tức có lời đáp lại “vâng,
chúng tôi sẵn sàng ạ…” và ra mở cửa. Sau khi gia chủ hỏi chúng tôi
kích thước may cờ Mặt Trận, chúng tôi không biết nên chỉ nói đại là có khổ vải
nào có sẵn thì may khổ đó theo kích thước các lá cờ thường may, hình như là chiều
dài bằng 2/3 chiều rộng, còn ngôi sao vàng ở giữa thì sao cho cân đối là được.
Chúng tôi đoán gia chủ lúc đỏ tưởng chúng tôi là “người của cách mạng nằm
vùng” chăng nên đã tỏ ra sẵn sàng làm theo yêu cầu của chúng tôi. Khoảng
15 phút sau, chúng tôi đã có trong tay hai lá cờ “Mặt trận Giải phóng Miền
Nam” làm bửu bối an toàn.
Khi xe chúng tôi chạy qua
Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Đô thành, thấy những người hôi của tương tự như ở
đồn Cảnh sát Giao thông Đô Thành, đang khuân đồ đạc đủ loại từ trong các văn
phòng đi ra. Một thanh niên mặc quần dài màu đậm, áo sơ mi ngắn tay thấy chúng
tôi cầm lá cờ Mặt thận trên tay, có lẽ đã lầm tưởng chúng tôi thuộc lực lượng
hoạt động nằm vùng nội thành, vội chạy đến nói nơi đây cần một lá cờ kéo lên
thay cờ quốc gia “nền vàng ba sọc đỏ”. Tôi nhớ mang máng hình như thanh niên ấy
là Huỳnh Tấn Mẫm mà lần đầu tiên cũng là duy nhất chúng tôi giáp mặt trước đó tại
hội trường Đại học Lâm Nông Súc trên đường Cường Để Saigon khi anh ta mới ra tù
vì chống chế độ... Vì thế, sau khi P. bạn tôi trao một trong hai lá cờ cho
thanh niên này, anh ta đã đem vào bên trong kéo lên thay lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Sau đó, P chạy vào trong một lúc sau thấy anh ta ôm theo một máy đánh chữ lớn
hiệu Arlington của Mỹ và cùng nhau trở về nhà.
Về đến nhà, nhìn là cờ “Mặt
Trận Dân tộc giải phóng Miền Nam” tự nhiên tôi quyết định không treo mà gấp
lại cất đi. Là vì lúc đó tôi nghĩ lại, nếu treo nó lên chỉ để làm “lá bùa hộ mệnh”
thì hèn quá, không tự trọng, mất nhân cách. Tại sao treo lá cờ ngụy nghĩa bất
chính đó lên, chưa biết có làm cho những kẻ thù ghét mình, biết quá khứ của
mình không tố cáo với VC, hay lại bị chính anh em bạn bè, hàng xóm láng giềng
hiểu lầm, nghi ngại, xa lánh?
Sáng hôm sau, ngày
1-5-1975, tôi lại chở P đi tới nhà yêu của hắn ở trại gia binh Hoàng Hoa Thám của
Sư đoàn Dù ở Ngả tư Bẩy Hiền (Sau ngày “Giải phóng” họ đã cưới nhau vội vàng
trước khi trình diện đi tù cải tạo chưa đầy một năm, P. trốn trại, vượt biên,
qua Úc, bảo lãnh vợ con qua sau, hiện đang sinh sốn tại Úc).
Trên đường đi đến nhà người
yêu của P., xe cộ và người qua lại vẫn đông, nhưng giao thông không bị kẹt cứng
nhiều nơi như ngày 30-4-1975. Người ta thấy, “Bên thắng cuộc”, vì
chiến thắng đến quá nhanh, bất ngờ nên đã không chủ động, không đủ người tiếp
quản các cơ quan chính quyền quân sự cũng như dân sự của chính quyền Saigon,
nên về giao thông đường phố người dân cũng phải tự quản. Người ta thấy trên nhiều
giao lộ đông người và xe cộ lưu thông, một số người trẻ đeo băng dỏ trên tay, đứng
đó đây điều hành giao thông và giữ trật tự công cộng. Trên đường, đó đây vẫn
còn những chiếc xe hơi của ai đó bỏ lại trên đường, không biết chủ nhân đã kịp
di tản hay con kẹt lại, giờ nay ở đâu, hay đã chết vì đạn lạc tên bay…
No comments:
Post a Comment